Giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tháng Tám tăng giảm đan xen, trong đó giá lương thực, thực phẩm, giá nhà ở thuê tăng so với tháng 7/2024, giá xăng dầu trong nước giảm theo giá thế giới. Tính chung tháng 8/2024, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ổn định so với tháng trước. So với tháng 12/2023, CPI tháng Tám tăng 1,89% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,45%.

Bình quân tám tháng năm 2024, CPI tăng 4,04% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,71%.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2024 ổn định. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 10 nhóm có chỉ số giá tăng nhẹ; riêng nhóm giao thông giảm giá so với tháng trước.

Mười nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:

– Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,29% chủ yếu do các nguyên nhân sau: Giá thuê nhà tăng 0,45% do nhu cầu thuê nhà tại một số địa phương tăng khi chuẩn bị vào năm học mới; giá gas tăng 0,67%, nguyên nhân do từ ngày 01/8/2024, giá gas trong nước điều chỉnh tăng theo giá gas thế giới. Bên cạnh đó, một số mặt hàng trong tháng có giá giảm so với tháng trước: Giá dầu hỏa giảm 6,02% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá điện sinh hoạt giảm 0,76%; nước sinh hoạt giảm 0,17%[1] do nhu cầu tiêu dùng giảm khi vào mùa mưa, thời tiết mát.

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,27% (làm cho CPI chung tăng 0,09 điểm phần trăm), trong đó: Lương thực tăng 0,19%[2]; thực phẩm tăng 0,28%[3] (làm cho CPI chung tăng 0,06 điểm phần trăm); ăn uống ngoài gia đình tăng 0,26%[4].

– Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,2%, trong đó, giá dịch vụ hành chính, pháp lý tăng 1,91%; đồ trang sức tăng 1,89%; dịch vụ vệ sinh môi trường tăng 0,52%; sửa chữa đồng hồ đeo tay và đồ trang sức tăng 0,28%. Ở chiều ngược lại, giá túi xách, vali, ví giảm 0,18%; đồng hồ đeo tay giảm 0,05%.

– Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,18%, trong đó giá khám chữa bệnh nội trú tăng 0,29%; dịch vụ khám chữa bệnh ngoại trú tăng 0,11%. Nguyên nhân do trong tháng 8/2024 tiếp tục có địa phương triển khai áp dụng giá dịch vụ y tế mới theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT ngày 17/11/2023 của Bộ Y tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong một số trường hợp[5].

– Nhóm bưu chính, viễn thông tăng 0,15%. Trong đó, giá máy điện thoại di động thông thường tăng 0,52%; giá máy điện thoại cố định tăng 0,25%.

– Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,15%, nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng của người dân dịp Lễ Vu Lan và trong mùa du lịch cao, cụ thể: Giá nước quả ép tăng 0,42%; nước uống tăng lực tăng 0,29%; thuốc hút tăng 0,25%; bia chai tăng 0,13%; rượu các loại tăng 0,12%.

– Nhóm giáo dục tăng 0,14%, trong đó giá bút viết các loại tăng 0,5%; sản phẩm từ giấy tăng 0,45%; văn phòng phẩm, đồ dùng học tập khác tăng 0,2%. Bên cạnh đó, giá dịch vụ giáo dục tăng 0,13% do một số trường đại học công lập, trung học dân lập, mầm non tư thục ở một số tỉnh[6] tăng học phí năm học 2024-2025.

– Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,12%, tập trung chủ yếu ở các nhóm: Giá dịch vụ du lịch ngoài nước tăng 0,72%; dụng cụ thể dục, thể thao tăng 0,38%; khách sạn, nhà khách tăng 0,24%; xem phim, ca nhạc tăng 0,16%. Ở chiều ngược lại, du lịch trong nước giảm 0,29% do các công ty giảm giá để kích cầu.

– Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,09% do chi phí nhân công tăng. Trong đó, dịch vụ sửa chữa tủ lạnh tăng 0,64% so với tháng trước; dịch vụ sửa chữa điều hòa nhiệt độ tăng 0,59%; thuê đồ dùng trong gia đình tăng 0,56%; dịch vụ sửa chữa máy giặt tăng 0,48%; sửa chữa thiết bị có động cơ tăng 0,45%; giường, tủ, bàn ghế tăng 0,24%; thuê người phục vụ tăng 0,14%; máy giặt tăng 0,11%. Ở chiều ngược lại, một số mặt hàng có giá giảm so với tháng trước do nhiều cửa hàng tiếp tục áp dụng các chương trình kích cầu mua sắm như: Giá bếp gas giảm 0,89%; máy xay sinh tố, ép hoa quả giảm 0,47%; đệm giảm 0,15%; nồi cơm điện giảm 0,07%; máy hút bụi giảm 0,03%.

– Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,05% do nhu cầu mua sắm chuẩn bị bước vào năm học mới tăng. Trong đó, giá giày dép tăng 0,53%; dịch vụ giày, dép tăng 0,44%; dịch vụ may mặc tăng 0,37%; vải các loại tăng 0,25%; mũ nón tăng 0,22%.

Riêng nhóm giao thông giảm 1,98% (tác động làm giảm CPI chung 0,19 điểm phần trăm), chủ yếu do: Giá dầu diezen giảm 7,05%; giá xăng trong nước giảm 5,83% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá vận tải hành khách bằng đường sắt giảm 4,09%; xe ô tô đã qua sử dụng giảm 0,28%. Bên cạnh đó, các nhóm hàng tăng giá: Giá phụ tùng ô tô tăng 0,4%; giá dịch vụ bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,91%; phí học bằng lái xe tăng 1,7%.

Lạm phát cơ bản[7] tháng 8/2024 tăng 0,24% so với tháng trước, tăng 2,53% so với cùng kỳ năm trước.

Bình quân tám tháng năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,71% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung (4,04%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế và xăng dầu là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.

Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 27/8/2024, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.495,53 USD/ounce, tăng 3,63% so với tháng 7/2024. Giá vàng thế giới tăng khi các nhà đầu tư tin rằng Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) có thể hạ lãi suất vào tháng Chín, cùng với đó xung đột địa chính trị trên thế giới và nhu cầu từ các Ngân hàng Trung ương đã đẩy mạnh hoạt động mua vàng như một tài sản bảo đảm an toàn. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 8/2024 tăng 1,93% so với tháng trước; tăng 20,4% so với tháng 12/2023; tăng 31,05% so với cùng kỳ năm trước; bình quân tám tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 25,54%.

Tính đến ngày 27/8/2024, chỉ số đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 102,38 điểm, giảm 1,97% so với tháng trước. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do quanh mức 25.329 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 8/2024 giảm 0,64% so với tháng trước; tăng 3,55% so với tháng 12/2023; tăng 5,86% so với cùng kỳ năm trước; bình quân tám tháng năm 2024 tăng 5,85%.

[1] Chỉ số giá điện, nước sinh hoạt tháng 8/2024 phản ánh biến động trễ một tháng so với các mặt hàng khác do được tính dựa trên doanh thu và sản lượng tiêu dùng của tháng 7/2024.

[2] Giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, cùng với đó vụ lúa hè thu sắp kết thúc cũng ảnh hưởng đến nguồn cung gạo. Chỉ số giá nhóm gạo tăng nhẹ 0,03% (Gạo tẻ thường giảm 0,02%; gạo tẻ ngon tăng 0,19%; gạo nếp tăng 0,24%). Bên cạnh đó, một số mặt hàng lương thực tháng Tám tăng giá so với tháng trước như giá khoai tăng 4,95%; ngô tăng 1,27%; miến tăng 0,31%; bún, bánh phở, bánh đa tăng 0,26%; bột ngô tăng 0,22%; ngũ cốc ăn liền tăng 0,13%.

[3] Giá nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 2,02%; giá thịt gia cầm tăng 0,21%; giá đồ gia vị tăng 0,59%; chè, cà phê, ca cao tăng 0,26%; sữa, bơ, phô mai tăng 0,15%; đường, mật tăng 0,04%; bánh, mứt, kẹo tăng 0,02%; giá dầu mỡ ăn và chất béo khác tăng 0,13%. Bên cạnh các mặt hàng tăng giá, một số mặt hàng thực phẩm tháng 8/2024 có giá giảm so với tháng trước: Giá thủy sản tươi sống giảm 0,15%; giá thịt lợn giảm nhẹ 0,06% do dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp tại một số địa phương khiến người tiêu dùng lo lắng về an toàn thực phẩm, nguồn gốc xuất xứ.

[4] Do nhu cầu ăn uống ngoài gia đình trong mùa du lịch tăng cao. Trong đó, giá uống ngoài gia đình tăng 0,45%; ăn ngoài gia đình tăng 0,25%; đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,16%.

[5] Chỉ số giá nhóm dịch vụ y tế tỉnh Nam Định tháng 8/2024 tăng 11,85% so với tháng trước.

[6] Một số địa phương có chỉ số giá dịch vụ giáo dục tháng 8/2024 tăng so với tháng trước: Đắk Lắk tăng 6,33%; Vĩnh Phúc tăng 2,91%; Hải Phòng tăng 2,5%; Đồng Nai tăng 0,76%; Hà Nội tăng 0,25%; Hà Tĩnh tăng 0,18%; TP. Hồ Chí Minh tăng 0,07%. Riêng tỉnh Hậu Giang giảm 23,21% theo Nghị quyết số 12/2024/NQ-HĐND ngày 24/7/2024.

[7] CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và giáo dục.


Ngành hoa, cây cảnh có dư địa tăng trưởng lớn

(Chinhphu.vn) - Ngành hoa cây cảnh Việt Nam có cơ hội lớn để phát triển nếu tận dụng tốt tiềm năng và ứng phó tốt với thách thức. Việc kết hợp giữa mô hình sản xuất công nghệ cao, liên kết chuỗi giá trị và chiến lược thị trường thông minh sẽ giúp ngành không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn vươn xa trên bản đồ xuất khẩu thế giới. (12/05/2025)

Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư

(Chinhphu.vn) - Tiếp tục thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh là một trong những nội dung trọng tâm của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp. (09/05/2025)

Đảm bảo đủ than cho sản xuất điện trong giai đoạn nắng nóng

(Chinhphu.vn) - Theo báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), thực hiện mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 của TKV, các đơn vị tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu. (05/05/2025)

Bộ Xây dựng cam kết bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết

(Chinhphu.vn) - Bộ Xây dựng vừa có Quyết định số 383/QĐ-BXD ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 66/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2025. (14/04/2025)

Thời điểm vàng cho Việt Nam, EU hợp tác vượt qua thách thức kinh tế toàn cầu

(Chinhphu.vn) - Đại sứ, Trưởng Phái đoàn EU tại Việt Nam, ông Julien Guerrier gợi ý, EU và Việt Nam nên biến thách thức từ mức thuế quan mới của Mỹ thành cơ hội để tạo thêm lợi ích cho thương mại và đầu tư giữa hai bên. (11/04/2025)

Giá trị gia tăng các sản phẩm nông nghiệp kỳ vọng đạt trên 4%

(Chinhphu.vn) - Ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để đạt mục tiêu tăng trưởng 4% trong năm 2025, đồng thời hướng tới kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản (NLTS) đạt 65 tỷ USD, thậm chí chạm mốc 70 tỷ USD. (02/04/2025)

Xem thêm