Qua tổng hợp nhanh kết quả cuộc Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016 cho thấy trong những năm gần đây tình hình nông thôn, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản nước ta tiếp tục phát triển toàn diện song còn nhiều khó khăn, thách thức. Dưới đây là những nét khái quát về bức tranh nông thôn và sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản từ kết quả sơ bộ cuộc Tổng điều tra:

  1. TÌNH HÌNH NÔNG THÔN
  2. Kết cấu hạ tầng nông thôn

Tại thời điểm 01/7/2016, cả nước có 8.978 xã, 79.899 thôn (ấp, bản); giảm 93 xã (giảm 1%) và giảm 1.005 thôn (giảm 1,2%) so thời điểm 01/7/2011. Số lượng xã, thôn trên địa bàn nông thôn giảm đáng kể so với năm 2011 là do quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng trong những năm gần đây, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng giảm 43 xã (giảm 2,2%), 169 thôn (giảm 1,1%); Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung giảm 40 xã (giảm 1,6%), 955 thôn (giảm 4,5%).

Mạng lưới điện đã được phủ rộng hầu hết khu vực nông thôn

Cả nước có 100% xã có điện (các tỷ lệ tương ứng năm 2006 là 98,9%, năm 2011 là 99,8%); giai đoạn 2006-2016 tỷ lệ thôn có điện tăng từ 92,4% năm 2006 lên 95,6% năm 2011 và đạt 97,8% năm 2016. Trong 6 vùng KT-XH, vùng Trung du và miền núi phía Bắc đạt tỷ lệ thấp nhất với 94,5% thôn có điện. Đây là thành tựu lớn của Chương trình cấp điện nông thôn, miền núi và hải đảo.

Hệ thống giao thông nông thôn có sự phát triển mạnh về số lượng và chất lượng

Đến thời điểm 01/7/2016 cả nước có 8.927 xã có đường ô tô từ trụ sở UBND huyện đến trụ sở UBND xã (sau đây gọi là đường ô tô đến trụ sở UBND xã), chiếm 99,4% tổng số xã (năm 2011 tỷ lệ này là 98,6%); giao thông nông thôn đảm bảo thường xuyên thông suốt, với 98,9% xã có đường ô tô đến trụ sở UNBD xã đi lại được quanh năm (năm 2011 là 97,2%).

Tỷ lệ xã có đường giao thông từ trụ sở UBND huyện đến trụ sở UBND xã được nhựa, bê tông hoá tăng nhanh trong vòng 10 năm qua (từ 70,1% năm 2006 tăng lên 87,4% năm 2011, đến năm 2016 đạt 97%). Hai vùng có tỷ lệ tăng nhanh nhất so với năm 2006 là Trung du và miền núi phía Bắc (từ 45,8% năm 2006 tăng lên 71,0% năm 2011, đến năm 2016 đạt 93,3%) và Tây Nguyên (các tỷ lệ tương ứng của 3 kỳ là 65,6%; 84,0% và 96,7%).

Hệ thống trường học ở khu vực nông thôn được duy trì ổn định

Đến năm 2016, hệ thống trường tiểu học đã cơ bản phủ khắp các xã, cả nước có 99,7% số xã đã có trường tiểu học, chỉ còn 23 xã chưa có trường tiểu học ở 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Nghệ An có 6 xã, Quảng Nam có 5 xã, Gia Lai có 2 xã, Bắc Kạn có 2 xã, …); năm 2011 con số tương ứng là 51 xã. Tỷ lệ xã có trường trung học cơ sở đạt 92,8% và 13,5% số xã có trường trung học phổ thông (tương ứng năm 2011 lần lượt là 92,9%; 12,8%).

Cùng với sự phát triển của hệ thống trường học tại cấp xã, các trường mẫu giáo, mầm non đã phát triển theo hướng gia tăng số xã có trường và giảm số thôn có lớp phân tán tại một số vùng. Cả nước đạt tỷ lệ 99,6% số xã có trường mẫu giáo, mầm non, chỉ còn 39 xã chưa có trường mẫu giáo, mầm non (năm 2011 đạt tỷ lệ 96,3%, tương đương còn 339 xã chưa có trường mẫu giáo, mầm non. Trong khi đó, tỷ lệ thôn có lớp mẫu giáo, mầm non chỉ còn 38,2% số thôn (năm 2011 đạt 46,0% số thôn có lớp mẫu giáo, mầm non).

Hệ thống cơ sở vật chất văn hóa được tăng cường

Tỷ lệ xã có nhà văn hóa đã tăng khá trong vòng 10 năm qua, từ 30,6% năm 2006, đến năm 2016 đạt 58,6% số xã có nhà văn hóa. Một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trên 90% số xã có nhà văn hóa xã (Vĩnh Phúc 95,5%; Hải Phòng 97,9%; Nghệ An 90,1%; Đà Nẵng 100%; Tây Ninh 93,8%; Sóc Trăng 100%). Tại thời điểm 01/7/2016, cả nước có 98,3% số xã có tủ sách pháp luật (năm 2011có 97%), trong đó vùng Đông Nam Bộ có 100% số xã; Đồng bằng sông Hồng có 99,5% số xã có tủ sách pháp luật. Tỷ lệ xã có hệ thống loa truyền thanh tăng từ 81,4% năm 2011 lên 89,6% năm 2016.

Hệ thống cơ sở y tế nông thôn tiếp tục được củng cố, phát triển

Đến năm 2016, cả nước có 8.933 xã có trạm y tế xã, chiếm 99,5% số xã trong đó có 69,8% số xã được công nhận đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã theo tiêu chuẩn giai đoạn đến 2020. Một số trạm y tế xã đã được nâng cấp thành các trung tâm y tế. Trung du và miền núi phía Bắc hiện vẫn còn 19 xã (chiếm 0,8% số xã của vùng) chưa có trạm y tế xã thuộc các tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Lai Châu.

Vệ sinh môi trường nông thôn đã từng bước được cải thiện

Tính đến thời điểm 01/7/2016 cả nước có 34,8% số xã và 22,7% số thôn đã xây dựng hệ thống thoát nước thải sinh hoạt chung, tương ứng năm 2011 chỉ đạt 18,5% số xã và trên 8,5% số thôn. Những năm gần đây hoạt động thu gom rác thải sinh hoạt trên địa bàn nông thôn đã được nhiều địa phương quan tâm. Đến năm 2016, cả nước có 62,4% số xã có tổ chức thu gom rác thải (năm 2011 có 44,1%) và 45,3% số thôn có tổ chức thu gom rác thải (tăng gấp 1,7 lần số thôn có tổ chức thu gom của năm 2011).

Hệ thống mạng lưới hỗ trợ sản xuất ở nông thôn được mở rộng

Đến năm 2016, cả nước có 60,8% số xã có chợ (năm 2011 đạt 57,6%), trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng đạt mức tăng cao nhất với tỷ lệ 72,9% số xã (năm 2011 đạt 64,8%); vùng có tỷ lệ xã có chợ đạt thấp nhất là Tây Nguyên chỉ đạt 37,7%. Mạng lưới cửa hàng cung cấp giống, nguyên liệu, vật tư và thu mua sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản cho người dân phát triển nhanh và tăng ở tất cả các vùng trên cả nước; số xã có cơ sở/cửa hàng đạt tỷ lệ 80,5% (năm 2011 đạt 66,5%).

Cả nước có 2.479 xã có mô hình tổ hợp tác hỗ trợ phát triển sản xuất, chiếm 27,6% tổng số xã, trong đó phát triển mạnh ở Đông Nam Bộ (chiếm 61,5% số xã) và Đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 84,3% số xã).

Một số tồn tại

Trong những năm gần đây mặc dù Nhà nước và xã hội đã quan tâm, đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhưng kết quả còn hạn chế thể hiện qua một số nét sau:

(1) Tỷ lệ thôn chưa có điện ở một số tỉnh miền núi còn cao như: Điện Biên 14,7%; Hà Giang 11,1%; Sơn La 10,9%; Lào Cai 10,4%; Bắc Kạn 8,5%; Cao Bằng 8,4%;…

(2) Hệ thống đường giao thông ở vùng sâu, vùng núi cao, hải đảo còn nhiều khó khăn. Cả nước hiện còn 0,6% số xã (tương ứng 51 xã) chưa có đường ô tô đi đến UBND xã; riêng các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long có gần 2,1% số xã. Cả nước vẫn có 1,2% số xã có đường ô tô không đi lại được quanh năm; 3% số xã chưa có đường đến UBND xã được rải nhựa, bê tông hóa, tập trung ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

(3) Vấn đề môi trường nông thôn còn nhiều bất cập. Hiện chỉ có 35,5% số thôn có xử lý rác thải sinh hoạt. Việc xây dựng hệ thống thoát nước thải cũng chỉ tập trung ở một số địa bàn nông thôn.

  1. Hộ khu vực nông thôn

Số hộ nông thôn tiếp tục tăng trong 5 năm qua

Theo kết quả sơ bộ, tại thời điểm 01/7/2016 cả nước có 15,99 triệu hộ nông thôn. Trong giai đoạn 2006-2016, số hộ nông thôn của cả nước tăng 2,22 triệu hộ (tăng 16,1%), tập trung chủ yếu giai đoạn 2006-2011 tăng 1,58 triệu hộ (tăng 11,4%). So với năm 2011, số hộ nông thôn của cả 6 vùng KT-XH đều tăng, trong đó ba vùng có tốc độ tăng cao nhất là: Tây Nguyên (tăng 10,6%), Đông Nam Bộ (tăng 8,2%) và Trung du và miền núi phía Bắc (tăng 7,8%) nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng di cư, mặt khác những vùng này có tỷ lệ tăng dân số tự nhiên cao so với cả nước.

Cơ cấu hộ nông thôn có sự chuyển dịch từ hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản sang hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản

Khu vực nông thôn hiện có 8,61 triệu hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 53,9%; 3,22 triệu hộ công nghiệp-xây dựng, chiếm 20,1%; 3,11 triệu hộ dịch vụ, chiếm 19,4% và 1,05 triệu hộ khác, chiếm 6,6%. Sau mười năm, cơ cấu hộ khu vực nông thôn có sự chuyển dịch rõ nét từ hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản sang hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tỷ trọng hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 71,1% năm 2006 xuống 62,1% năm 2011 và 53,9% năm 2016; tỷ trọng hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng tương ứng 25,1%, 33,4% và 39,6%.

Xu hướng biến động của hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản ngược với hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản

Xét trên phạm vi cả nước, số hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản ở có xu hướng giảm qua ba kỳ Tổng điều tra và ngày càng thể hiện rõ nét. Năm 2011 có 9,54 triệu hộ, giảm 248 nghìn hộ (giảm 2,5%) so với năm 2006; năm 2016 có 8,61 triệu hộ, giảm 925,2 nghìn hộ (giảm 9,7%) so với năm 2011.

Cũng trong giai đoạn 2011-2016, số hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng gần 1,2 triệu hộ (+23,2%), trong đó số hộ công nghiệp-xây dựng tăng 39,6%; hộ dịch vụ tăng 9,9%. Nhóm hộ công nghiệp-xây dựng tăng mạnh ở tất cả các vùng; một số tỉnh tăng rất cao như Hải Dương (+75%), Bắc Ninh (+69,3%), Đồng Nai (+41,3%).

Như vậy, trong mười năm 2006-2016, xu hướng thay đổi của hộ công nghiệp-xây dựng ngược với hộ nông thôn. Nếu như hộ nông thôn tăng 16,1% thì ngược lại hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 12,0%.

Số hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm, từ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng

Ở khu vực nông thôn, số hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng có xu hướng giảm. Sau 10 năm, tỷ trọng hộ có nguồn thu nhập từ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 67,8% năm 2006 xuống còn 57,1% năm 2011 và 49% năm 2016. Tỷ trọng nhóm hộ có nguồn thu nhập từ các hoạt động phi nông, lâm nghiệp và thủy sản đều tăng, tăng nhiều nhất thuộc nhóm hộ có nguồn thu nhập từ hoạt động công nghiệp-xây dựng, chiếm tỷ trọng là 11,3% năm 2006; 17,3% năm 2011 và 22,7% năm 2016.

Kết quả trên phản ánh xu hướng phát triển sản xuất của các vùng, những vùng có ngành nghề phi nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển, nguồn thu nhập của người dân không còn phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp.

  1. Kết thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới

Tính đến thời điểm 01/7/2016 cả nước có 2.060 xã đạt chuẩn Nông thôn mới, chiếm 23,1% tổng số xã thực hiện xây dựng Nông thôn mới. Trong thời gian tới, số lượng xã đạt chuẩn Nông thôn mới sẽ tăng lên do 139 xã (chủ yếu thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung) đã đạt toàn bộ 19 tiêu chí và đang chờ cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Số lượng tiêu chí bình quân 1 xã đạt được tại thời điểm 01/7/2016 của cả nước là 12,7 tiêu chí. Vùng Đồng bằng sông Hồng đạt cao nhất với bình quân 16,1 tiêu chí/xã; Trung du và miền núi phía Bắc đạt thấp nhất với 9,6 tiêu chí/xã.

Trên phạm vi cả nước có trên 90% xã đạt được tiêu chí “Quy hoạch và thực hiện quy hoạch”, “Bưu điện” và “An ninh trật tự xã hội”. Vùng Đồng bằng sông Hồng đạt tỷ lệ cao nhất về 3 tiêu chí nói trên với tỷ lệ tương ứng lần lượt là 99,8%, 99,5% và 96,9%.

Số xã chưa đạt chuẩn Nông thôn mới có tỷ trọng lớn, chiếm gần 77% tổng số xã của cả nước. Trong đó, khoảng 70%-80% các xã chưa đạt Nông thôn mới gặp khó khăn đối với việc thực hiện các tiêu chí “Cơ sở vật chất văn hóa”, “Giao thông”, “Trường học” và “Môi trường”. Khoảng 60% số xã chưa đạt các tiêu chí này tập trung tại các vùng Trung du và miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung.

  1. SẢN XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THUỶ SẢN

Theo kết quả tổng hợp nhanh, đến thời điểm 01/7/2016, cả nước có 9,32 triệu hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản (khu vực nông thôn là 8,61 triệu hộ, chiếm 92,4%). Cũng tại thời điểm 01/7/2016, cả nước có 33.488 trang trại. Từ kết quả tổng hợp sơ bộ có thể rút ra những nhận xét ban đầu về trang trại và hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản như sau:

  1. Hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm nhanh

Tính chung cả giai đoạn 2006-2016 số hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 10,9% tương đương 1,14 triệu hộ, trong đó riêng 5 năm gần đây số hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 1,05 triệu hộ. Từ năm 2011 đến năm 2016, bình quân mỗi năm giảm hơn 200 nghìn hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản.

Hộ nông nghiệp: Tại thời điểm 01/7/2016 cả nước có 8,5 triệu hộ nông nghiệp, giảm 1,1 triệu hộ (giảm 11,5%) so với năm 2011, bình quân mỗi năm số hộ nông nghiệp giảm hơn 200 nghìn hộ. Tuy nhiên, hộ nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nhóm hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản (chiếm 91,1%).

Hộ lâm nghiệp: Năm 2016 hộ lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ (1,23%) trong nhóm hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tổng số hộ lâm nghiệp hiện có 114,5 nghìn hộ, tăng 57 nghìn hộ (tăng 102%) so với năm 2011. Số hộ lâm nghiệp tăng có nguyên nhân từ kết quả của các chương trình phát triển lâm nghiệp trong giai đoạn 2011 -2016.

Hộ thuỷ sản: Cả nước có 713 nghìn hộ thuỷ sản, giảm 6 nghìn hộ (giảm 0,92%) so với năm 2011. Tuy nhiên, riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm về nuôi trồng thủy sản chiếm hơn một nửa số hộ thủy sản của cả nước vẫn tăng 7,4 nghìn hộ (tăng 2%) so với năm 2011.

Trong giai đoạn 2006-2016 cơ cấu hộ nông nghiệp giảm và hộ thủy sản tăng liên tục qua các kỳ Tổng điều tra. Cơ cấu hộ nông nghiệp giảm từ 93,1% năm 2006 xuống 92,5% năm 2011 và 91,1% năm 2016; cơ cấu hộ thủy sản tăng tương ứng 6,6%, 6,9% và 7,7%; trong đó vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nuôi trồng và khai thác thủy sản nên số hộ thủy sản chiếm tỷ trọng lớn và tăng cao.

  1. Kinh tế trang trại

Số lượng trang trại[1] tăng nhanh và có sự chuyển đổi loại hình rõ nét

Kinh tế trang trại phát triển nhanh về số lượng ở hầu hết các vùng trong cả nước, đến thời điểm01/7/2016 cả nước có 33.488 trang trại, tăng 13.460 trang trại (tăng 67,2%) so với năm 2011. Từ năm 2011 đến năm 2016 bình quân mỗi năm số lượng trang trại của cả nước tăng hơn 13%. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Hồng có số lượng trang trại tăng mạnh nhất (tăng 6.435 trang trại) chiếm gần một nửa số trang trại tăng thêm trong vòng 5 năm qua của cả nước.

Số lượng trang trại tăng tập trung chủ yếu ở loại hình trang trại chăn nuôi, tăng 14.521 trang trại (gấp 3,3 lần) so với cùng kỳ năm 2011. Trong vòng 5 năm qua, bình quân mỗi năm trang trại chăn nuôi tăng hơn 45%. Số lượng trang trại thủy sản giảm mạnh, giảm 2.172 trang trại (giảm 48%) so với năm 2011, giảm trung bình gần 10% mỗi năm.

Đến ngày 01/7/2016, cả nước có 9.216 trang trại trồng trọt, chiếm 27,5% trong tổng số trang trại của cả nước; 20.869 trang trại chăn nuôi, chiếm 62,4%; 112 trang trại lâm nghiệp, chiếm 0,3%; 2.350 trang trại nuôi trồng thủy sản, chiếm 7% và 941 trang trại tổng hợp, chiếm 2,8%.

Trang trại sử dụng nhiều đất đai, tạo công ăn việc làm cho người lao động

Đến thời điểm 01/7/2016, các trang trại sử dụng 187 nghìn ha diện tích đất sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 35,9 nghìn ha so năm 2011. Trong đó, có 60 nghìn ha đất trồng cây hàng năm; 79,5 nghìn ha đất trồng cây lâu năm; 17,6 nghìn ha đất lâm nghiệp và 29,8 nghìn ha đất nuôi trồng thủy sản. Bình quân 1 trang trại sử dụng 5,6 ha đất sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.

Các trang trại đã sử dụng 134,7 nghìn lao động làm việc thường xuyên, tăng 40 nghìn lao động (tăng 42,4%) so với năm 2011. Trong đó, lao động của hộ chủ trang trại là 75,8 nghìn người, chiếm 56,3% tổng số lao động, còn lại là lao động thuê mướn thường xuyên. Bình quân 1 trang trại sử dụng 4,0 lao động thường xuyên. Số lượng lao động bình quân 1 trang trại giảm so với năm 2011 (năm 2011 là 4,7 lao động) do các trang trại đã áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa máy móc thiết bị vào phục vụ các khâu trong sản xuất, bên cạnh đó việc gia tăng số lượng trang trại chăn nuôi, loại hình trang trại sử dụng ít lao động hơn các loại hình trang trại khác (trồng trọt, nuôi trồng thủy sản).

Trang trại tạo nhiều giá trị sản phẩm hàng hóa nông, lâm nghiệp và thủy sản

Tổng thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của các trang trại năm 2016 đạt 93.098 tỷ đồng, tăng 54.007 tỷ đồng (tăng 138,2%) so với năm 2011. Bình quân 1 trang trại đạt 2.780 triệu đồng, tăng 828 triệu đồng (tăng 42,4%).

  1. Sản xuất nông nghiệp theo mô hình cánh đồng lớn

Tính đến thời điểm 01/7/2016, trên phạm vi cả nước có tổng số 2.262 cánh đồng lớn; trong đó có 1661 cánh đồng trồng lúa, chiếm 73,4%; 50 cánh đồng trồng ngô, chiếm 2,2%; 95 cánh đồng mía, chiếm 4,2%; 162 cánh đồng rau các loại, chiếm 7,2%;…

Tổng diện tích gieo trồng của cánh đồng lớn năm 2016 đạt 579,3 nghìn ha, trong đó diện tích trồng lúa 516,9 nghìn ha, chiếm 89,2%. Mặc dù sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn đem lại hiệu quả sản xuất cao, tuy nhiên hiện nay quy mô sản xuất của cánh đồng lớn so với tổng diện tích gieo trồng của cả nước vẫn còn khá khiêm tốn, chỉ chiếm 3,9%.

Diện tích gieo trồng bình quân một cánh đồng đạt 256,1 ha, trong đó: cánh đồng lúa 311,2 ha; cánh đồng ngô 69,4 ha; cánh đồng mía 147,2 ha; cánh đồng trồng rau các loại 105 ha; cánh đồng trồng cây gia vị đạt gần 26 ha; cánh đồng chè búp đạt xấp xỉ 200 ha bình quân một cánh đồng.

Năm 2016 cả nước có khoảng 619 nghìn hộ tham gia sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn. Bình quân số hộ tham gia một cánh đồng lớn là 274 hộ/cánh đồng, trong đó cao nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng (375 hộ/cánh đồng); thấp nhất ở khu vực Đông Nam bộ (50 hộ/cánh đồng).

Hiện nay, tỷ lệ diện tích gieo trồng theo mô hình cánh đồng lớn được ký hợp đồng bao tiêu trước khi sản xuất của cả nước trung bình đạt 29,2%, trong đó có đến 12/48 tỉnh có tỷ lệ này đạt 100%, 9/48 tỉnh đạt dưới 10%.

Kết quả sơ bộ Tổng điều tra 2016 đã phác họa bức tranh toàn cảnh về nông thôn, nông dân và nông nghiệp Việt Nam qua một số chỉ tiêu cơ bản về hạ tầng nông thôn; về cư dân nông thôn và về hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp. Thông tin về kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới cho thấy sự thay đổi rõ nét của khu vực nông thôn ngày nay. Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất trên những cánh đồng lớn tại các tỉnh, thành phố của cả nước trong một năm qua đã thể hiện quy mô của hoạt động sản xuất lớn trong nông nghiệp. Bên cạnh đó, việc so sánh các chỉ tiêu qua các thời kỳ, các vùng miền cho thấy một số vấn đề về dịch chuyển cơ cấu hộ, thay đổi quy mô hộ, sự chậm phát triển và phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền,… ở nông thôn hiện nay đang đặt ra những khó khăn, thách thức đối với việc xây dựng quy hoạch nông thôn và chính sách định hướng phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn nông thôn trong giai đoạn tiếp theo.

Kết quả chính thức Tổng điều tra năm 2016 sẽ công bố vào Quý III/2017 với hệ thống các chỉ tiêu thống kê chi tiết, đầy đủ và những phân tích chuyên sâu thông qua nhiều hình thức (sách, đĩa CD, Webside, …) hy vọng sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin về nông thôn, cư dân nông thôn và nông nghiệp Việt Nam.

TỔNG CỤC THỐNG KÊ

[1]  Tiêu chí trang trại được qui định trong Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/4/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.