- Số lượng cơ sở và số lao động của các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp tăng lên nhanh chóng.
Tại thời điểm 1/7/2007 cả nước có trên 4,145 triệu cơ sở, tăng gần 1,265 triệu cơ sở so với thời điểm 1/7/2002 và gấp gần 2 lần so với thời điểm 1/7/1995;
Cùng với sự gia tăng số lượng cơ sở, số lượng lao động trong các cơ sở cũng tăng nhanh. Nếu tại thời điểm tổng điều tra 1/7/1995 cả nước chỉ có 6,74 triệu lao động, đến 1/7/2002 cả nước đã có 10,79 triệu lao động và chỉ sau 5 năm số lượng lao động đã đạt tới 16,71 triệu người, tăng 54,9% so với năm 2002 và gấp gần 2,5 lần so với năm 1995
Khu vực doanh nghiệp độc lập
Tại thời điểm 1/7/2007 có xấp xỉ 133,6 nghìn doanh nghiệp độc lập, gấp hơn hai lần so với năm 2002. Như vậy sau 5 năm số lượng doanh nghiệp đã tăng thêm 77 nghìn doanh nghiệp;
Lao động trong các doanh nghiệp cũng tăng lên đáng kể. Với số lao động là 7,056 triệu tăng 84,3% so với 2002, sau 5 năm các ngành và lĩnh vực kinh doanh của khu vực này đã thu hút thêm được hơn 3,2 triệu lao động.
Khu vực cơ sở sản xuất kinh doanh phụ thuộc
Tổng số các cơ sở kinh tế thuộc loại hình này là 52,6 nghìn cơ sở, trong đó có 51,6 nghìn cơ sở phụ thuộc các doanh nghiệp, 970 cơ sở phụ thuộc các cơ quan hành chính, sự nghiệp.
Số lượng lao động thuộc các cơ sở sản xuất kinh doanh phụ thuộc là 1,315 triệu lao động. So với kết quả điều tra năm 2002 tăng 14%,
Khu vực cơ sở kinh tế cá thể
Số cơ sở kinh tế cá thể có đến 1/7/2007 là 3,748 triệu cơ sở, tăng 43,1% so với năm 2002.
Mặc dù số lượng cơ sở cá thể nhiều gấp 20 lần số cơ sở thuộc doanh nghiệp và chiếm tỷ trọng trên 95,2% so với cả khu vực sản xuất kinh doanh nhưng lao động của các cơ sở cá thể chỉ bằng 48,3% số lao động khu vực sản xuất kinh doanh và bằng 93,3% so với khối doanh nghiệp và chi nhánh phụ thuộc.
Về qui mô cơ sở của các cơ sở cá thể vẫn còn nhỏ, một cơ sở cá thể trung bình có 1,76 lao động, trong khi các cơ sở thuộc doanh nghiệp là 38,6 lao động.
Khu vực cơ sở hành chính, sự nghiệp
Khu vực này bao gồm các cơ sở là các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các cơ sở thuộc các tổ chức Đảng, đoàn thể, hiệp hội. Tại thời điểm 1/7/2007, số cơ sở hành chính sự nghiệp xấp xỉ 182,9 nghìn cơ sở, chiếm 4,4% trong tổng số cơ sở kinh tế và tăng 28,8% so với 1/7/2002. Trong khu vực này, cơ sở thuộc cơ quan hành chính nhà nước năm 2007 là 39,7 nghìn cơ sở tăng 11,8% so với năm 2002; thuộc các đơn vị sự nghiệp có 110,8 nghìn cơ sở tăng 42,8% so với năm 2002 và các cơ sở thuộc các tổ chức Đảng, đoàn thể, hiệp hội có 32,4 nghìn cơ sở tăng 11,8% so với năm 2002.
Tổng số lao động của khu vực hành chính, sự nghiệp tại thời điểm 1/7/2007 có xấp xỉ 2932,9 nghìn người, tăng 490,5 nghìn người về số tuyệt đối và 20,1% về tốc độ so với thời điểm 1/7/2002. Trong khu vực này, lao động thuộc cơ quan hành chính có tốc độ tăng thấp nhất so với năm 2002 (2,3%), cơ sở sự nghiệp có tốc độ tăng khá cao là 29%. Điều này cho thấy tác động của chính sách tinh giản biên chế khu vực hành chính nhà nước và mở rộng phát triển các đơn vị sự nghiệp.
Cơ sở tôn giáo
Việc tách riêng các cơ sở tôn giáo để điều tra trong Tổng điều tra năm 2007 đã cho phép nhìn nhận rõ một số nét về hoạt động của khu vực này. Các cơ sở tôn giáo đang hoạt động ở nước ta thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau như đạo Phật, Thiên chúa giáo, đạo Cao đài, đạo Tin lành, đạo Hồi… Tại thời điểm Tổng điều tra cả nước có 28.066 cơ sở tôn giáo tăng 55%, với 122.889 người làm việc thường xuyên tại cơ sở tăng 63% so với Tổng điều tra năm 2002.
- Số lượng cơ sở tăng nhanh nhưngkhông đồng đều giữa các ngành kinh tế, theo hướng tập trung vào các ngành dịch vụ
Kết quả điều tra cho thấy với hơn 4,145 triệu cơ sở kinh tế tại thời điểm 1/7/2007 có xấp xỉ 3,935 triệu cơ sở thuộc khu vực sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng 94,9% (năm 2002 chiếm 94,4%) và khu vực hành chính sự nghiệp, Đảng, đoàn thể, hiệp hội, tôn giáo chỉ có 210,9 nghìn cơ sở chiếm tỷ trọng 5,1%. Trong khi tốc độ tăng số cơ sở của khu vực kinh tế công nghiệp và xây dựng năm 2007 so với năm 2002 chỉ đạt 20,35% thì khu vực dịch vụ đạt tới 53,05%.
Xét theo ngành kinh tế, một số ngành có tốc độ tăng trưởng về số cơ sở năm 2007 so với năm 2002 khá cao như: sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 343%; thông tin truyền thông tăng 318.6%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 248.9% và đặc biệt là hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 426.2%.
Kết quả số liệu tăng trưởng theo khu vực, ngành kinh tế cho thấy trái ngược với sự giảm sút về số cơ sở đối với các ngành nông nghiệp (các doanh nghiệp và cơ sở trực thuộc doanh nghiệp nông nghiệp) và khai khoáng, thì nhiều ngành thuộc khu vực dịch vụ đã có tốc độ tăng nhanh như bán buôn, bán lẻ, dịch vụ lưu trú và ăn uống, thông tin và truyền thông, tài chính, ngân hàng, kinh doanh bất động sản, … và đặc biệt đã có sự xuất hiện thêm nhiều cơ sở hoạt động trong các ngành dịch vụ hành chính, văn phòng luật sư, tư vấn đầu tư, môi giới, chứng khoán… là những lĩnh vực kinh doanh khá mới mẻ và có sức hút lớn. Điều này chứng tỏ vai trò của khu vực dịch vụ ngày càng được thể hiện trong sự phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế cao và các ngành dịch vụ sẽ tạo ra động lực thúc đẩy nền kinh tế trong những năm tiếp theo.
- Mật độ tăng lên theo xu hướng tăng của số lượng cơ sở nhưng không đồng đều giữa các vùng và địa phương, giữa khu vực nông thôn và thành thị.
Tính bình quân trên 1 km2, năm 1995 có 6,2 cơ sở kinh tế, năm 2002 là 8,7 cơ sở và năm 2007 là 12,5 cơ sở. Nếu tính theo dân số, năm 1995 cứ 1000 dân có 25,5 cơ sở, năm 2002 con số này là 36,1 cơ sở và năm 2007 là 48,7 cơ sở.
Tuy nhiên mật độ cơ sở kinh tế phân bố không đều giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các địa phương, trong đó cao nhất là vùng đồng bằng sông Hồng 69,9 cơ sở, và thấp nhất là vùng Tây Bắc chỉ có 2,01 cơ sở trên 1 km2. Đặc biệt, hai thành phố lớn có mật độ cơ sở kinh tế khá cao là Hà Nội 160 cơ sở trên 1km2 và TP Hồ Chí Minh là 187,5 cơ sở.
- Qui mô theo lao động của các cơ sở kinh tế, đã được cải thiện so với 5 năm trước đây nhưng nhìn chung vẫn còn nhỏ.
Cụ thể, năm 1995 bình quân 1 cơ sở chỉ có 3,31 người, năm 2002 là 3,75 nhưng đến năm 2007 con số này là 4,03.
Trong khi qui mô lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc doanh nghiệp tăng khá cao sau 5 năm, trong đó bình quân mỗi cơ sở thuộc doanh nghiệp nhà nước có 265,7 người (năm 2002 là 182,2 người), doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có 342,1 người (năm 2002 có 269,3 người) thì các cơ sở thuộc khu vực sản xuất kinh doanh cá thể chỉ có 1,76 người. Bình quân lao động của 1 cơ sở thuộc khu vực cơ sở hành chính, sự nghiệp trong Tổng điều tra này giảm so với Tổng điều tra 2002, từ 17,2 người xuống còn 16,04 người; điều này cho thấy tác động của chính sách tinh giản biên chế khu vực hành chính nhà nước.
Trong tổng số các cơ sở được điều tra có tới 92.7% cơ sở chỉ có số lao động từ 5 người trở xuống, trong đó có 2,15 triệu cơ sở chỉ có 1 lao động (chiếm 52,01% trong tổng số). Tính riêng khu vực cơ sở sản xuất cá thể có tới 56,3% cơ sở có 1 lao động, các cơ sở thuộc doanh nghiệp và chi nhánh phụ thuộc con số này là 24,32% và các đơn vị hành chính sự nghiệp là 11,8%.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp đã có bước tiến đáng kể
Năm 2002 cả nước chỉ có 525 nghìn máy tính được sử dụng trong các cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp thì đến năm 2007 đã có xấp xỉ 2,02 triệu máy tính, tăng gấp 3,28 lần và tăng đồng đều cả ở khu vực sản xuất kinh doanh và khu vực hành chính sự nghiệp. Riêng số máy nối mạng LAN phục vụ cho giao dịch nội bộ đã tăng gấp 6,5 lần và số máy nối mạng Internet đạt mức tăng rất cao sau 5 năm là 16,13 lần. Số cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các doanh nghiệp, cơ quan có tỷ lệ sử dụng máy tính khá cao, chiếm 74% số cơ sở, trong khi đó số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể có sử dụng máy không đáng kể (0,9%). Khu vực cơ sở hành chính, sự nghiệp, Đảng, đoàn thể và hiệp hội đạt tỷ lệ 50% số cơ sở có sử dụng máy tính.
- Một số thông tin về loại hình kinh tế đặc thù
Khu cụm công nghiệp
Theo kết quả Tổng điều tra có 550 khu/cum công nghiệp tại thời điểm 1/7/2007, trong đó có 332 khu/cụm đang hoạt động, 112 khu/cụm đang trong giai đoạn xây dựng, còn lại là các khu/cụm đã có quyết định thành lập nhưng chưa triển khai. Các khu/cụm công nghiệp tập trung nhiều nhất ở một số vùng như: Đồng bằng sông Hồng có 165 khu/cụm, tiếp đến là Duyên hải Nam Trung Bộ có 119 khu/cụm công nghiệp, vùng Đông Nam Bộ có 103 khu/cụm; Các khu/cụm này tập trung ở một số tỉnh như Bắc Ninh, Hà Tây, Quảng Nam, Bình Dương, Đồng Nai. Trong tổng số 332 khu/cụm đang hoạt động thì có tới 146 khu/cụm công nghiệp bắt đầu hoạt động từ năm 2005 đến nay; 133 khu/cụm ra hoạt động trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2004; 47 khu/cụm hoạt động trong khoảng thời gian 1995 đến 1999, và chỉ có 6 khu/cụm hoạt động từ năm 1990 đến 1994. Điều đáng lưu ý về hoạt động của các cơ sở trong khu/cụm công nghiệp là vấn đề xử lý môi trường: số liệu cho thấy chỉ có 13,1% số cơ sở có hệ thống xử lý nước thải tập trung, 14,7% cơ sở có hệ thống thu gom, vận chuyển, lưu giữ tạm thời chất thải rắn CN đang hoạt động. Số cơ sở còn lại hầu hết là chưa có các hệ thống này hoặc còn đang trong giai đoạn xây dựng.
Làng nghề thuộc khu vực thành thị
Theo số liệu cuộc Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 cả nước ta có 1077 làng nghề, trong đó có 951 làng nghề truyền thống thuộc khu vực nông thôn. Kết quả Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2007, khu vực thành thị chỉ có 86 làng nghề trong đó có 68 làng nghề truyền thống. Tỷ lệ số hộ tham gia hoạt động làng nghề thường xuyên đạt 47,8%. Tuy nhiên cũng có những làng nghề có tỷ lệ 100% số hộ tham gia, với số người bình quân tham gia là 2,1 người/hộ. Hoạt động sản xuất chủ yếu của các làng nghề – làng nghề truyền thống thuộc khu vực thành thị là đan lát mây tre, đồ gỗ, dệt chiếu, gốm sứ… với thị trường chính tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề là trong nước (94,2%). Tương tự các cơ sở trong khu/cụm công nghiệp, tình trạng xử lý nước thải, rác thải tại làng nghề thuộc khu vực thành thị rất đáng được quan tâm khi chỉ có 8,1% số làng và 5,6% số hộ trong các làng nghề có hệ thống xử lý nước thải, rác thải tập trung.
Khái quát lại, kết quả Tổng điều tra cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp năm 2007 đã phản ánh được những điểm chủ yếu trong bức tranh toàn cảnh chung về sự phát triển của kinh tế Việt Nam sau 5 năm. Qua đây có thể rút ra một số nhận định sau:
– Số lượng cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp và lao động của các cơ sở trên mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề đã có sự gia tăng nhanh chóng. Tuy nhiên, tăng lên không đồng đều giữa các ngành kinh tế, theo hướng tập trung vào các ngành dịch vụ, đặc biệt tăng nhanh vào một số ngành dịch vụ mới.
– Mật độ các cơ sở cũng tăng lên theo xu hướng tăng của số lượng cơ sở nhưng không đồng đều giữa các vùng và địa phương, giữa các khu vực nông thôn và thành thị.
– Qui mô theo lao động của các cơ sở kinh tế, đặc biệt là qui mô các cơ sở thuộc khu vực sản xuất kinh doanh mặc dù đã được cải thiện so với 5 năm trước đây nhưng nhìn chung vẫn còn nhỏ.
– Chất lượng lao động trong các cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp được nâng lên một cách đáng kể. Đây sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp của nước ta trong thời gian tới.
Kết quả trên đây đã thể hiện tác động tích cực của những chính sách quản lý của Đảng, Nhà nước theo hướng phát triển cả về qui mô và chất lượng các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp thuộc các loại hình tổ chức, các ngành và các thành phần kinh tế. Phát triển kinh tế hài hòa, bền vững trên cơ sở cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân là mục tiêu nhất quán mà Đảng, Nhà nước ta luôn đặt ra trong các công tác xây dựng chính sách, điều hành, quản lý nền kinh tế. Khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực doanh nghiệp là hợp lý song cần hài hoà cân đối giữa các vùng miền, giữa các ngành kinh tế để thu hút lực lượng lao động, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Các cơ sở sản xuất cá thể một mặt đã đóng góp không nhỏ trong nền kinh tế hiện nay, nhưng ý nghĩa lớn hơn của khu vực này là giải quyết công ăn việc làm cho 6,6 triệu lao động, cải thiện kinh tế gia đình, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cho các hộ gia đình, các cá nhân, cùng với các thành phần kinh tế khác góp phần thúc đẩy và ổn định kinh tế, xã hội của đất nước, của từng vùng/địa phương. Trong khi kinh tế cá thể còn yếu ở khâu điều hành tổ chức, sự hỗ trợ của Nhà nước là rất cần thiết để hướng các cơ sở này phát triển đúng hướng của nền kinh tế. Đối với khu vực hành chính sự nghiệp, Đảng, đoàn thể và hiệp hội cần được sắp xếp hợp lý, giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà, đào tạo bồi dưỡng lao động để nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ nhằm đạt được kết quả cao trong sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước./.