BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, khó dự đoán, đặc biệt là chính sách của Mỹ và phản ứng của các nước. Sự gia tăng bất ổn về địa chính trị và chính sách thương mại đã gây áp lực lên đầu tư và chi tiêu hộ gia đình. Căng thẳng thuế quan giữa Hoa Kỳ và các nước, nguy cơ chiến tranh thương mại đang hiện hữu đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, thiên tai, biến đổi khí hậu gây hậu quả nghiêm trọng; nguy cơ về an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng… gia tăng. Trong bối cảnh tăng trưởng yếu đi và lạm phát giảm xuống của các tháng đấu năm, nhiều quốc gia đã nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng.

Nhiều tổ chức quốc tế giữ nguyên hoặc điều chỉnh giảm tăng trưởng toàn cầu năm 2025 so với dự báo đưa ra trước đó. Tháng 01/2025, Ngân hàng Thế giới (WB)[1] và Liên hợp quốc (UN)[2] dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới đạt lần lượt là 2,7% và 2,8%, giữ nguyên so với dự báo trong tháng 6/2024. Tháng 3/2025, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)[3] và Fitch Ratings[4] dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2025 đạt 3,1% và 2,3%, điều chỉnh lần lượt giảm 0,2 và 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 12/2024. Riêng Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)[5] dự báo kinh tế thế giới sẽ tăng 3,3%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 10/2024.

Trong khu vực, WB dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2025 của Phi-li-pin đạt 6,1%, cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với năm trước; In-đô-nê-xi-a đạt 5,1%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm; Thái Lan tăng 2,9%, cao hơn 0,3 điểm phần trăm; riêng Việt Nam đạt 6,8%, thấp hơn 0,3 điểm phần trăm. IMF dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2025 của Phi-li-pin đạt 6,1%, cao hơn 0,3 điểm phần trăm so với năm 2024; In-đô-nê-xi-a đạt 5,1%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm; Thái Lan đạt 2,9%, cao hơn 0,2 điểm phần trăm; Ma-lai-xi-a đạt 4,7%, thấp hơn 0,3 điểm phần trăm. UN dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2025 của Việt Nam đạt 6,5%, cao hơn 0,4 điểm phần trăm so với năm 2024; Phi-li-pin đạt 6,1%, cao hơn 0,5 điểm phần trăm; Thái Lan đạt 3,1%, cao hơn 0,5 điểm phần trăm.

Trong nước, với quyết tâm tạo động lực đột phá để phát triển kinh tế – xã hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 25/NQ-CP và các văn bản liên quan[6]. Bộ, ngành, địa phương đã theo dõi chặt chẽ những biến động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, đồng thời nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm đạt mục tiêu đề ra. Kinh tế – xã hội quý I/2025 của nước ta đạt được kết quả tích cực trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý I/2025 như sau:

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ

1. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2025 ước tính tăng 6,93% so với cùng kỳ năm trước, đạt mức tăng cao nhất so với quý I các năm trong giai đoạn 2020-2025[7]. Kết quả tăng trưởng này đã vượt mục tiêu đặt ra cho quý I/2025 tại Nghị quyết số 01/NQ-CP[8], nhưng chưa đạt mục tiêu phấn đấu cao hơn tại Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 do thế giới biến động nhanh, nhiều bất ổn đã ảnh hưởng đến kinh tế – xã hội nước ta. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,74%, đóng góp 6,09% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,42%, đóng góp 40,17%; khu vực dịch vụ tăng 7,70%[9], đóng góp 53,74%.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng đạt mục tiêu đề ra trong quý I với sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm, sản lượng gỗ khai thác và sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng khá nhờ ứng dụng kỹ thuật, công nghệ cao đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp quý I/2025 tăng 3,53% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,32 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 6,67% nhưng do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,98%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, sản xuất công nghiệp tiếp tục khởi sắc. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I/2025 tăng 7,32% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước tăng 6,71%), đóng góp 2,39 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 9,28%[10], đóng góp 2,33 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,60%, đóng góp 0,18 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,81%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,76%, làm giảm 0,17 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 7,99%, cao hơn so với tốc độ tăng 7,57% của quý I/2024, đóng góp 0,48 điểm phần trăm.

Trong khu vực dịch vụ, nhu cầu tiêu dùng vào dịp Tết Nguyên đán và số lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng cao góp phần cho tăng trưởng của ngành thương mại và dịch vụ đạt mức tăng khá cao. Đóng góp của một số ngành dịch vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế quý I năm nay như sau: Ngành vận tải kho bãi tăng 9,90% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,67 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 9,31%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 7,47%, đóng góp 0,83 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,83%, đóng góp 0,41 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 6,66%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế quý I/2025, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,56%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,31%; khu vực dịch vụ chiếm 43,44%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,69%[11].

Về sử dụng GDP quý I/2025, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,45% so với cùng kỳ năm trước, tích lũy tài sản tăng 7,24%, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 9,71%, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 12,45%.

2. Sản xuất nông nghiệp quý I/2025 tiếp tục tăng trưởng ổn định. Thời tiết thuận lợi cùng với việc áp dụng hiệu quả khoa học kỹ thuật giúp sản lượng cây lâu năm đạt khá; chăn nuôi phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát. Sản xuất lâm nghiệp đẩy mạnh công tác trồng rừng mới, sản lượng gỗ khai thác tăng cao. Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng do đẩy mạnh nuôi siêu thâm canh, tăng cường ứng dụng công nghệ cao

a) Nông nghiệp

Lúa đông xuân: tính đến 20/3/2025, cả nước gieo cấy được 2.949,4 nghìn ha lúa đông xuân, tăng 17,2 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2024. Các địa phương phía Bắc đạt 1.033,4 nghìn ha, giảm 7,6 nghìn ha so với vụ đông xuân năm trước; các địa phương phía Nam đạt 1.916,0 nghìn ha, tăng 24,8 nghìn ha. Riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.508,3 nghìn ha, tăng 20,7 nghìn ha; trong đó, có 1.060,3 nghìn ha đã thu hoạch, chiếm 70,3% diện tích gieo cấy và bằng 105,3% cùng kỳ năm trước; năng suất ước đạt 72,0 tạ/ha, giảm 0,3 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng ước đạt 10,9 triệu tấn, tăng 109 nghìn tấn.

Lúa mùa: Cũng đến thời điểm 20/3/2025, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn tất công tác thu hoạch lúa vụ mùa 2024-2025 với diện tích gieo trồng đạt 191,8 nghìn ha, tăng 8,7 nghìn ha so với vụ mùa năm trước; năng suất ước đạt 52,7 tạ/ha, giảm 0,6 tạ/ha so với vụ mùa năm trước do ảnh hưởng mưa trái mùa trong giai đoạn lúa trổ bông; sản lượng ước đạt 1,0 triệu tấn, tăng 35,4 nghìn tấn.

Cây hằng năm: Tính đến 20/3/2025, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 323,0 nghìn ha ngô, bằng 100,2% cùng kỳ năm trước; 95,1 nghìn ha lạc, bằng 98,2%; 8,3 nghìn ha đậu tương, bằng 96,8%; 42,5 nghìn ha khoai lang, bằng 93,6%; 571,6 nghìn ha rau đậu, bằng 101,2%.

Cây lâu năm: Trong quý I năm nay, sản lượng một số cây ăn quả chủ yếu tăng khá so với cùng kỳ nhờ tăng diện tích cho sản phẩm và tăng năng suất cây trồng, như: sầu riêng đạt 162,4 nghìn tấn, tăng 16,8%; chuối đạt 708,9 nghìn tấn, tăng 5,6%; xoài đạt 194,2 nghìn tấn, tăng 5,3%; cam đạt 336,1 nghìn tấn, tăng 4,0%; bưởi đạt 161,0 nghìn tấn, tăng 2,5%; thanh long đạt 330,9 nghìn tấn, tăng 2,1%. Sản lượng thu hoạch một số cây công nghiệp lâu năm như sau: dừa đạt 546,7 nghìn tấn, tăng 8,2%; hồ tiêu đạt 145,6 nghìn tấn, tăng 4,8%; chè búp đạt 178,3 nghìn tấn, tăng 2,9%; cao su đạt 137,7 nghìn tấn, tăng 2,7%.

Chăn nuôi: Chăn nuôi trâu, bò có xu hướng giảm do hiệu quả kinh tế không cao và diện tích chăn thả bị thu hẹp. Chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát, giá bán thịt lợn hơi tăng[12], sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao hơn khi giảm quy mô sản xuất ở những hộ nhỏ lẻ và phát triển các doanh nghiệp chăn nuôi quy mô lớn có quy trình khép kín với giá thành sản xuất thấp hơn.

b) Lâm nghiệp

Quý I/2025, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước đạt 45,6 nghìn ha, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 24,2 triệu cây, tăng 4,4%; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 4.346,0 nghìn m3, tăng 16,6%. Diện tích rừng bị thiệt hại[13] là 216,0 ha, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích rừng bị chặt, phá là 167,1 ha, giảm 8,3%; diện tích rừng bị cháy là 48,9 ha, giảm 30,2%.

c) Thủy sản

Ước tính quý I/2025, tổng sản lượng thủy sản đạt 1.993,4 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá đạt 1.480,3 nghìn tấn, tăng 2,9%; tôm đạt 202,4 nghìn tấn, tăng 4,6%; thủy sản khác đạt 310,7 nghìn tấn, tăng 1,5%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng quý I/2025 ước đạt 1.113,6 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá đạt 806,7 nghìn tấn, tăng 5,4%; tôm đạt 170,0 nghìn tấn, tăng 5,5%; thủy sản khác đạt 136,9 nghìn tấn, tăng 2,5%.

Sản lượng thủy sản khai thác ước tính quý I/2025 đạt 879,8 nghìn tấn, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá đạt 673,6 nghìn tấn, tương đương cùng kỳ năm trước; tôm đạt 32,4 nghìn tấn, tăng 0,1%; thủy sản khác đạt 173,8 nghìn tấn, tăng 0,8%. Riêng sản lượng khai thác biển ước đạt 832,0 nghìn tấn, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước.

3. Sản xuất công nghiệp trong quý I/2025 tiếp tục khởi sắc, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của quý I kể từ năm 2020 đến nay[14], trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,5%

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý I/2025 ước tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2024 tăng 5,9%), trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,5% (quý I/2024 tăng 6,0%), đóng góp 7,9 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,6%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,6%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 4,7%, làm giảm 0,7 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Chỉ số sản xuất quý I/2025 của một số ngành công nghiệp trọng điểm cấp II tăng so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất xe có động cơ tăng 36,1%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 18,1%; sản xuất trang phục tăng 14,6%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 12,9%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 12,8%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 12,7%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 11,8%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa…  tăng 11,0%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 10,6%; dệt tăng 9,9%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 8,6%. Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành giảm: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 9,6%; sản xuất thiết bị điện giảm 1,1%; sản xuất đồ uống giảm 0,7%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực quý I/2025 tăng so với cùng kỳ năm trước: Ô tô tăng 81,5%; ti vi tăng 22,9%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 18,6%; phân hỗn hợp NPK tăng 15,8%; quần áo mặc thường tăng 14,3%; linh kiện điện thoại tăng 12,0%; giày, dép da tăng 9,1%; thức ăn cho thủy sản tăng 7,4%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 12,9%; dầu mỏ thô khai thác giảm 6,4%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 2,4%; thép cán giảm 1,8%; điện thoại di động giảm 1,7%; sơn hóa học giảm 0,9%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2025 tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước tăng 8,2%).

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2025 tăng 5,9% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 15,1% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 14,1%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2025 là 90,0% (bình quân quý I/2024 là 68,7%).

4. Tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường quý I/2025 đạt 72,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2024; 78,8 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 7,0%

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[15]

Quý I/2025, cả nước có 36,4 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký gần 356,8 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 228,2 nghìn lao động, giảm 4,0% về số doanh nghiệp, tăng 1,3% về số vốn đăng ký và giảm 14,6% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong quý I/2025 đạt 9,8 tỷ đồng, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm 2024. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 3 tháng đầu năm nay là 1.386,7 nghìn tỷ đồng, gấp gần 2,1 lần so với cùng kỳ năm 2024.

Bên cạnh đó, cả nước có hơn 36,5 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 54,8% so với cùng kỳ năm 2024), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong quý I/2025 lên hơn 72,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 18,6 % so với cùng kỳ năm 2024. Bình quân một tháng có hơn 24,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Cũng trong quý I năm nay, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là hơn 61,4 nghìn doanh nghiệp, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước; gần 11,5 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 26,1%; gần 5,9 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 23,0%. Bình quân một tháng có gần 26,3 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2025 cho thấy: Có 24,1% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý IV/2024; 47,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 28,8% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn[16]. Dự kiến quý II/2025, có 45,8% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I/2025; 39,2% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 15,0% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Trong đó, khu vực doanh nghiệp FDI lạc quan nhất với 87,0% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2025 tốt hơn và giữ ổn định so với quý I/2025; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước lần lượt là 84,7% và 84,1%.

Về khối lượng sản xuất, có 25,2% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý I/2025 tăng so với quý IV/2024; 44,1% số doanh nghiệp cho rằng ổn định và 30,7% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm[17]. Xu hướng quý II/2025 so với quý I/2025, có 45,1% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 40,9% số doanh nghiệp dự báo ổn định và 14,0% số doanh nghiệp dự báo giảm.

Về đơn đặt hàng, có 23,3% số doanh nghiệp có số lượng đơn đặt hàng mới quý I/2025 cao hơn quý IV/2024; 47,4% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng mới ổn định và 29,3% số doanh nghiệp có đơn hàng giảm[18]. Xu hướng quý II/2025 so với quý I/2025, có 43,3% số doanh nghiệp dự kiến số lượng đơn đặt hàng mới tăng lên; 42,8% số doanh nghiệp dự kiến số lượng ổn định và 13,9% số doanh nghiệp dự kiến giảm.

Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý I/2025 so với quý IV/2024, có 20,6% số doanh nghiệp khẳng định số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới cao hơn; 53,2% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng xuất khẩu mới ổn định và 26,2% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới giảm. Xu hướng quý II/2025 so với quý I/2025, có 37,8% số doanh nghiệp dự kiến tăng số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới; 48,9% số doanh nghiệp dự kiến ổn định và 13,3% số doanh nghiệp dự kiến giảm.

5. Nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cao trong các kỳ nghỉ lễ, Tết đầu năm; số lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng cao là các nhân tố đóng góp tích cực cho tăng trưởng của ngành thương mại, dịch vụ. Tính chung quý I/2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 14,0% và doanh thu du lịch lữ hành tăng 18,3%; vận chuyển hành khách tăng 17,6% và luân chuyển tăng 14,7%; vận chuyển hàng hóa tăng 15,4% và luân chuyển tăng 8,9%; khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 6 triệu lượt người, tăng 29,6%; số lượt người Việt Nam xuất cảnh đạt 2,7 triệu lượt người, gấp 2,2 lần cùng kỳ năm trước

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng 3/2025 ước đạt 570,9 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.708,3 nghìn tỷ đồng, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2024 tăng 8,6%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,5% (quý I/2024 tăng 5,5%).

 

Vận tải hành khách tháng 3/2025 ước đạt 479,4 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 0,8% so với tháng trước và luân chuyển 25,8 tỷ lượt khách.km, giảm 1,2%. Quý I/2025, vận tải hành khách ước đạt 1.414,2 triệu lượt khách, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 77,7 tỷ lượt khách.km, tăng 14,7%.

Vận tải hàng hóa tháng 3/2025 ước đạt 242,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 2,7% so với tháng trước và luân chuyển 45,5 tỷ tấn.km, tăng 3,8%. Tính chung quý I/2025, vận tải hàng hóa ước đạt 715,8 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 138,6 tỷ tấn.km, tăng 8,9%.

­­­­ Doanh thu viễn thông quý I/2025 theo giá hiện hành ước đạt 94,7 nghìn tỷ đồng, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,6%). Tổng số thuê bao điện thoại tại thời điểm cuối tháng 3/2025 ước đạt 121,7 triệu thuê bao, giảm 3,7% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó số thuê bao di động là 119,6 triệu thuê bao, giảm 3,6%. Số thuê bao truy cập internet băng rộng cố định tại thời điểm cuối tháng Ba ước đạt hơn 23,6 triệu thuê bao, tăng 2,9% so với cùng thời điểm năm trước.

Khách quốc tế đến Việt Nam[19]: chính sách thị thực thuận lợi, các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch được đẩy mạnh cùng với những giải thưởng du lịch danh giá được các tổ chức quốc tế trao tặng đã thu hút khách quốc tế đến Việt Nam tiếp tục tăng cao.

Quý I/2025, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 6 triệu lượt người, tăng 29,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến bằng đường hàng không đạt 5,2 triệu lượt người, chiếm 86,4% lượng khách quốc tế đến và tăng 34,0% so với cùng kỳ năm trước; bằng đường bộ đạt 685,5 nghìn lượt người, chiếm 11,4% và tăng 9,6%; bằng đường biển đạt 133,0 nghìn lượt người, chiếm 2,2% và giảm 2,7%. Phân theo vùng lãnh thổ: khách đến từ châu Á đạt hơn 4,7 triệu lượt người, tăng 33,8%; khách đến từ châu Âu đạt 791,9 nghìn lượt người, tăng 19,6%; khách đến từ châu Mỹ đạt 341,5 nghìn lượt người, tăng 13,0%; khách đến từ châu Úc đạt 160,1 nghìn lượt người, tăng 11,4%; khách đến từ châu Phi đạt 12,3 nghìn lượt người, giảm 5,9%.

Số lượt người Việt Nam xuất cảnh[20] trong quý I/2025 đạt 2,7 triệu lượt người, gấp 2,2 lần cùng kỳ năm trước.

6. Quý I/2025, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, tạo động lực tăng trưởng và kiểm soát lạm phát; hoạt động kinh doanh bảo hiểm đạt được những kết quả tích cực; thị trường chứng khoán diễn biến ổn định với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu tăng 1,1%

Tổng phương tiện thanh toán tính đến thời điểm 25/3/2025 tăng 1,99% so với cuối năm 2024 (cùng thời điểm năm 2024 tăng 0,23%), huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 1,36% (cùng thời điểm năm 2024 giảm 0,76%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 2,49% (cùng thời điểm năm 2024 tăng 0,26%).

Về thị trường bảo hiểm quý I/2025: doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ, vốn đầu tư trở lại nền kinh tế, tổng tài sản của các doanh nghiệp bảo hiểm đạt mức tăng trưởng khá. Tổng doanh thu phí bảo hiểm quý I/2025 ước đạt 56.575 tỷ đồng, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: doanh thu phí lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ ước đạt 34.561 tỷ đồng, tăng 3,0%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 22.014 tỷ đồng, tăng 10,6%.

Trên thị trường cổ phiếu, tính đến ngày 31/3/2025, chỉ số VNIndex đạt 1.306,86 điểm, tăng 0,1% so với cuối tháng trước và tăng 3,2% so với cuối năm 2024; mức vốn hóa thị trường ước đạt gần 7.253,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,1%; giá trị giao dịch bình quân đạt 18.152 tỷ đồng/phiên, giảm 13,6% so với bình quân năm 2024. Đến cuối tháng 3/2025 có 724 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết; 886 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM với tổng giá trị niêm yết và đăng ký giao dịch đạt 2.376 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% so với cuối năm 2024.

Trên thị trường trái phiếu, giá trị giao dịch bình quân quý I/2025 đạt 13.652 tỷ đồng/phiên, tăng 15,7% so với bình quân năm 2024. Đến cuối tháng 3/2025, thị trường trái phiếu có 465 mã niêm yết với giá trị niêm yết đạt 2.409 nghìn tỷ đồng, tăng 4,3% so với cuối năm 2024.

Trên thị trường chứng khoán phái sinh, quý I/2025 khối lượng giao dịch bình quân đạt gần 174,9 nghìn hợp đồng/phiên, giảm 17,1% so với bình quân năm 2024; sản phẩm chứng quyền có bảo đảm đạt 46.263,4 nghìn chứng quyền/phiên, giảm 6,6%.

7. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong quý I/2025 theo giá hiện hành tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều so với mức tăng 5,5% của cùng kỳ quý I/2024. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam quý I/2025 ước đạt 4,96 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, đạt mức cao nhất ba tháng đầu năm của các năm từ 2020 đến nay

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2025 theo giá hiện hành ước đạt 666,5 nghìn tỷ đồng, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn khu vực Nhà nước ước đạt 184,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 27,7% tổng vốn đầu tư và tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 361,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 54,2%, tăng 5,5%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 120,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,1% và tăng 9,3%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam[21] tính đến ngày đến ngày 31/3/2025[22] đạt 10,98 tỷ USD, tăng 34,7% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới có 850 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 4,33 tỷ USD, tăng 11,5% về số dự án và giảm 31,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký điều chỉnh có 401 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 5,16 tỷ USD, gấp 5 lần so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 810 lượt với tổng giá trị góp vốn 1,49 tỷ USD, tăng 83,7% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ba tháng đầu năm 2025 ước đạt 4,96 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong ba tháng đầu năm 2025[23] có 30 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 233,6 triệu USD, gấp 9,4 lần so với cùng kỳ năm trước; có 05 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 5,4 triệu USD, gấp 24,3 lần. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) gần 239 triệu USD, gấp 9,5 lần so với cùng kỳ năm trước.

8. Thu ngân sách Nhà nước quý I/2025 ước tăng 29,3% so với cùng kỳ năm trước[24]. Chi ngân sách Nhà nước ước tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2024, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định

Tổng thu ngân sách Nhà nước quý I/2025 đạt 721,3 nghìn tỷ đồng, bằng 36,7% dự toán năm và tăng 29,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa ước đạt 646,3 nghìn tỷ đồng, bằng 38,7% dự toán năm và tăng 34,5% so với cùng kỳ năm trước; thu từ dầu thô ước đạt 13,3 nghìn tỷ đồng, bằng 25,0% dự toán năm và giảm 15,3% so với cùng kỳ năm trước; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 61,6 nghìn tỷ đồng, bằng 26,2% dự toán năm và tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước quý I/2025 ước đạt 428,2 nghìn tỷ đồng, bằng 16,8% dự toán năm và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi thường xuyên đạt 316,5 nghìn tỷ đồng, bằng 20,2% dự toán năm và tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước; chi đầu tư phát triển đạt 78,7 nghìn tỷ đồng, bằng 10,0% và giảm 2,5%; chi trả nợ lãi 32,6 nghìn tỷ đồng, bằng 29,5% và tăng 1,7%.

9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

a) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[25]

Quý I năm 2025, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 202,52 tỷ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 10,6%; nhập khẩu tăng 17,0%[26]. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 3,16 tỷ USD.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3/2025 đạt 38,51 tỷ USD, tăng 23,8% so với tháng trước. Tính chung quý I/2025 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 102,84 tỷ USD, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 29,02 tỷ USD, tăng 15,0%, chiếm 28,2% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 73,82 tỷ USD, tăng 9,0%, chiếm 71,8%. Có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 84,5% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 5 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 59,9%).

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2025 đạt 36,88 tỷ USD, tăng 12,9% so với tháng trước. Tính chung quý I năm 2025, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 99,68 tỷ USD, tăng 17,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 36,78 tỷ USD, tăng 19,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 62,9 tỷ USD, tăng 15,8%. Có 17 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 77,2% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 2 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 44,4%).

b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ quý I/2025, ước đạt 7,58 tỷ USD, tăng 21,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 4,2 tỷ USD (chiếm 55,4% tổng kim ngạch), tăng 29,2%; dịch vụ vận tải đạt 2,0 tỷ USD (chiếm 26,4%), tăng 24,2%.

Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ quý I/2025 ước đạt 9,22 tỷ USD (trong đó đã tính trong phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm của hàng hóa nhập khẩu là 3,16 tỷ USD), tăng 18,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 3,73 tỷ USD (chiếm 40,5% tổng kim ngạch), tăng 17,5%; dịch vụ du lịch đạt 3,4 tỷ USD (chiếm 36,9%), tăng 30,8%.

Nhập siêu dịch vụ quý I/2025 là 1,64 tỷ USD.

10. Trong quý I/2025, thị trường hàng hóa toàn cầu có nhiều biến động do tình hình chính trị, kinh tế, xã hội toàn cầu tiếp tục đối mặt với nhiều bất ổn. Xung đột tại U-crai-na và khu vực Trung Đông tiếp tục diễn biến phức tạp. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ đang tạo ra những thách thức mới cho thương mại toàn cầu. Trong nước, hoạt động sản xuất hàng hóa, dịch vụ duy trì theo hướng tăng trưởng ổn định, bảo đảm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. CPI bình quân quý I tăng 3,22% so với cùng kỳ năm 2024. Chỉ số giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp, dịch vụ, chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất và chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý I/2025 có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước, riêng chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa giảm theo thị trường thế giới

a) Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2025 giảm 0,03% so với tháng trước; tăng 1,3% so với tháng 12/2024 và tăng 3,13% so với cùng kỳ năm trước. CPI  quý I/2025, tăng 3,22% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản[27] tháng 3/2025 tăng 0,25% so với tháng trước và tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân quý I/2025, lạm phát cơ bản tăng 3,01% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,22%) chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, giá dịch vụ y tế là yếu tố tác động tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính toán lạm phát cơ bản.

b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Trong tháng 3/2025, giá vàng thế giới tăng mạnh và liên tục lập đỉnh mới do tác động tổng hợp từ nhiều yếu tố kinh tế và địa chính trị. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 3/2025 tăng 4,68% so với tháng trước; tăng 32,68% so với cùng kỳ năm trước; tăng 10,75% so với tháng 12/2024; bình quân quý I/2025, chỉ số giá vàng tăng 31,45%.

Giá đô la Mỹ trong nước biến động ngược chiều với giá thế giới, bình quân trên thị trường tự do quanh mức 25.685 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2025 tăng 0,77% so với tháng trước; tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước; tăng 0,92% so với tháng 12/2024; bình quân quý I/2025, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 3,63%.

c) Chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2025 tăng 1,74% so với quý trước và tăng 8,28% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 1,29% và tăng 9,79%; lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 1,65% và tăng 3,96%; thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 3,17% và tăng 3,93%.

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý I/2025 tăng 1,25% so với quý trước và tăng 2,24% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng tăng 0,68% và tăng 0,07%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,16% và tăng 2,01%; điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 4,25% và tăng 10,71%; nước tự nhiên khai thác, dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,64% và tăng 2,47%.

Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý I/2025 tăng 2,91% so với quý trước và tăng 4,74% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Dịch vụ vận tải, kho bãi tăng 3,03% và tăng 6,22%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 1,53% và tăng 4,28%; thông tin và truyền thông tăng 0,5% và tăng 0,24%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 15,11% và tăng 19,61%; nghệ thuật vui chơi giải trí tăng 0,24% và tăng 0,67%.

Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý I/2025 tăng 2,76% so với quý trước và tăng 4,93% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,17% và tăng 1,9%; chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,92% và tăng 5,28%; chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho xây dựng tăng 0,71% và tăng 1,1%.

d) Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý I/2025 tăng 0,22% so với quý trước và tăng 6,61% so với cùng kỳ năm 2024. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa quý I/2025 giảm 0,25% so với quý trước và giảm 1,07% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ giá thương mại hàng hóa (TOT)[28] quý I/2025 tăng 0,47% so với quý trước và tăng 7,76% so với cùng kỳ năm 2024.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Tình hình lao động, việc làm quý I/2025 tiếp tục duy trì quy luật của quý có Tết Nguyên đán, đó là lực lượng lao động giảm so với quý trước và tăng so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân tháng của người lao động[29] tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động giảm so với quý trước và giảm so với cùng kỳ năm trước

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I/2025 ước tính là 52,9 triệu người, giảm 230,7 nghìn người so với quý trước và tăng 532,0 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý I/2025 là 68,2%, giảm 0,8 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý I/2025 là 28,8%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,0 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Lao động có việc làm quý I/2025 ước tính là 51,9 triệu người, giảm 234 nghìn người so với quý trước và tăng 532,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 20,0 triệu người, giảm 115,9 nghìn người so với quý trước và tăng 433,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; khu vực nông thôn là 31,9 triệu người, giảm 118,1 nghìn người và tăng 98,5 nghìn người.

Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động[30] quý I/2025 là 797,0 nghìn người, tăng 32,4 nghìn người so với quý trước và giảm 136,0 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý I/2025 là 1,72%, tăng 0,07 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,31 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 0,98%, giảm 0,28 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,22 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; khu vực nông thôn là 2,21%, tăng 0,31 điểm phần trăm và giảm 0,36 điểm phần trăm.

Thu nhập bình quân của lao động quý I/2025 là 8,3 triệu đồng/tháng, tăng 131 nghìn đồng so với quý IV/2024 và tăng 720 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, thu nhập bình quân tháng của lao động nam là 9,3 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 7,1 triệu đồng/tháng; thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị là 10,1 triệu đồng/tháng, khu vực nông thôn là 7,2 triệu đồng/tháng.

Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động[31] quý I/2025 là 2,20%, giảm 0,02 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,04 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó: khu vực thành thị là 2,38%; khu vực nông thôn là 2,07%.

Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng[32] quý I/2025 là 3,9%. Trong đó, khu vực thành thị là 3,3% và khu vực nông thôn là 4,2%.

Lao động làm công việc tự sản tự tiêu quý I/2025 là 3,8 triệu người, tăng 168,2 nghìn người so với quý trước và giảm 117,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

2. Theo kết quả báo cáo điều tra lao động và việc làm hằng tháng thu nhập và đời sống của hộ dân cư được cải thiện. Công tác an sinh xã hội tiếp tục được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương quan tâm thực hiện kịp thời, thiết thực.

Tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập trong các tháng trong quý I/2025 tăng lên so với cùng kỳ năm 2024 là 34,5%, tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập không thay đổi là 61,9%, tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập giảm và không biết là 3,6%. So với kỳ báo cáo quý IV/2024, tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập tăng lên tăng 0,4 điểm phần trăm, tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập không đổi, tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập giảm và không biết giảm 0,4 điểm phần trăm. So với quý I/2024, tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập tăng lên tăng 3,4 điểm phần trăm, tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập không đổi giảm 0,5 điểm phần trăm, tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập giảm và không biết giảm 2,9 điểm phần trăm.

Tổng số tiền hỗ trợ an sinh xã hội[33] cho các nhóm (từ đầu năm đến ngày 25/3/2025) là hơn 20,5 nghìn tỷ đồng, chi tiết cho từng nhóm đối tượng cụ thể như sau: hỗ trợ cho người có công và thân nhân của người có công với cách mạng là gần 10,0 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cho đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP là gần 8,0 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách xã hội là hơn 2,4 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ bất thường khác phát sinh tại địa phương là hơn 152,1 tỷ đồng. Có gần 26,4 triệu thẻ bảo hiểm y tế/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ hưởng.

Về hỗ trợ gạo, tính từ đầu năm đến ngày 28/3/2025, Chính phủ đã hỗ trợ cho người dân gần 6,9 nghìn tấn gạo, trong đó: hỗ trợ 6,0 nghìn tấn gạo cứu đói nhân dịp Tết Nguyên đán cho 402,6 nghìn nhân khẩu; hỗ trợ 836,0 tấn gạo cứu đói giáp hạt năm 2025 cho gần 55,8  nghìn nhân khẩu.

Về kết quả chương trình chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trong năm 2025 theo Quyết định số 539/QĐ-TTg ngày 19/6/2024 của Thủ tướng Chính phủ, tính đến hết ngày 28/3/2025, các địa phương đã nhận được 2.836,8 tỷ đồng[34] hỗ trợ từ các bộ, ngành, địa phương, ngân hàng, tập đoàn, đạt gần 82,0% theo phương án phân công của Ban Chỉ đạo Trung ương. Có 36 địa phương đã phát động trên địa bàn, huy động được trên 2.832 tỷ đồng. Cả nước đã hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát được 168,0 nghìn căn, trong đó, khánh thành 81,6 nghìn căn và khởi công mới 86,4 nghìn căn.

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến hết tháng 3/2025, cả nước có 6.001/7.696 xã (78,0%) đạt chuẩn nông thôn mới; trong đó 2.363 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 605 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; bình quân cả nước đạt 17,6 tiêu chí/xã; có 307 đơn vị cấp huyện thuộc 59 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (chiếm 47,5% số huyện cả nước) hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 29 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 23 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới[35].

3. Tình hình dịch bệnh quý I/2025 tuy được kiểm soát nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ lây lan, ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người dân.

Theo báo cáo của Bộ Y tế, quý I/2025 cả nước có 52,2 nghìn trường hợp sốt phát ban nghi sởi (05 người tử vong); 20,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (02 người tử vong); 7,7 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (01 người tử vong); 82 trường hợp viêm não vi rút; 19 người tử vong do bệnh dại; 10 trường hợp viêm màng não do não mô cầu.

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 17/3/2025 là 247,8 nghìn người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 116,2 nghìn người.

Về ngộ độc thực phẩm, quý I/2025 (từ ngày 19/12/2024 đến 17/3/2025), cả nước xảy ra 10 vụ ngộ độc thực phẩm làm 62 người bị ngộ độc (08 người tử vong).

4. Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được các địa phương quan tâm và thực hiện. Thể thao thành tích cao đạt được một số kết quả nổi bật

Trong quý, nhiều hoạt động văn hóa diễn ra sôi nổi, đa dạng, gồm lễ hội truyền thống, bảo tồn di sản, các sự kiện nghệ thuật và sáng tạo. Một số lễ hội truyền thống đã được tổ chức: Lễ hội Văn hóa dân gian Phố Hiến 2025 tại Hưng Yên, Lễ hội Cầu ngư ở Đà Nẵng, Lễ hội đền Kỳ Cùng – Tả Phủ tại Lạng Sơn, Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam tại An Giang (được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại). Đặc biệt, lễ đón nhận danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Nghề làm bún Vân Cù tại Thành phố Huế với các hoạt động phong phú, ý nghĩa đã thu hút đông đảo người dân và du khách. Bên cạnh đó, nhiều lễ hội truyền thống đền, chùa ở các địa phương được tổ chức trang nghiêm không chỉ tôn vinh giá trị văn hóa dân tộc mà còn góp phần phát triển du lịch địa phương. Ngoài ra, trong lĩnh vực nghệ thuật và sáng tạo cũng có nhiều hoạt động như: Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 42 tại Bình Định đã tôn vinh những sáng tạo xuất sắc trong ngành truyền thông; sự lan tỏa mạnh mẽ của MV “Bắc Bling”, không chỉ thành công về mặt giải trí mà còn góp phần quảng bá hình ảnh văn hóa làng quê Bắc Bộ đến với công chúng trong và ngoài nước, chứng tỏ sức ảnh hưởng của văn hóa đại chúng trong đời sống hiện đại.

Về phong trào thể dục thể thao quần chúng, hướng tới kỷ niệm 79 năm Ngày Thể thao Việt Nam, sự kiện Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân 2025 được tổ chức đồng loạt trên cả nước vào ngày 23/3 tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Các địa phương như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Yên Bái, Huế, Quảng Ngãi, Long An, Thanh Hóa, Đà Nẵng đã tổ chức sự kiện này với quy mô lớn, góp phần thúc đẩy phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” và “Khỏe để lập nghiệp và giữ nước”.

Về thể thao thành tích cao, từ đầu năm đến nay thể thao Việt Nam đạt được nhiều thành tích ấn tượng tại các giải đấu quốc tế quan trọng. Ở môn bắn súng, đoàn Việt Nam xuất sắc giành tổng cộng 11 huy chương (3 vàng, 3 bạc, 5 đồng) tại giải Bắn súng châu Á 2025 tổ chức tại Thái Lan từ ngày 09-22/2/2025. Trong bóng đá, đội tuyển nữ Thành phố Hồ Chí Minh đã giành vé vào bán kết AFC Women’s Champions League vào ngày 23/3, trong khi đội U22 Việt Nam thi đấu ấn tượng tại giải CFA Team China với ba trận hòa trước các đối thủ mạnh U22 Hàn Quốc và U22 U-dơ-bê-ki-xtan. Đội tuyển bóng đá nam quốc gia cũng có khởi đầu thuận lợi cho vòng loại Asian Cup 2027 với chiến thắng 5-0 trước Lào. Ở môn cầu mây, đội tuyển nữ Việt Nam đã làm nên lịch sử khi lần đầu tiên giành Huy chương vàng tại Cúp Cầu mây thế giới diễn ra tại Ấn Độ từ ngày 20-25/3/2025. Billiards Việt Nam ghi dấu ấn với vị trí á quân giải Carom 3 băng đồng đội thế giới tại Đức và một cơ thủ Việt Nam giành chức vô địch tại giải vô địch Carom 3 băng thế giới tại Cô-lôm-bi-a. Đội tuyển boxing nữ cũng đóng góp vào thành tích chung với tấm Huy chương đồng hạng cân 63 kg nữ tại giải vô địch boxing nữ thế giới ở Xéc-bi-a.

5. Tai nạn giao thông[36]

Trong quý I năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 4.536 vụ tai nạn giao thông, làm 2.477 người chết và 3.079 người bị thương. So với năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 30,6%; số người chết giảm 12,0% và số người bị thương giảm 39,5%. Bình quân 1 ngày trong quý I/2025, trên địa bàn cả nước xảy ra 50 vụ tai nạn giao thông, làm 28 người chết và 34 người bị thương.

6. Thiệt hại do thiên tai[37] ô nhiễm môi trường và cháy, nổ ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người dân ở một số địa phương

Quý I/2025, thiên tai làm 07 người chết và mất tích, 06 người bị thương; gần 10,1 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng; 173 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong quý I/2025 ước tính 116,7 tỷ đồng, giảm 31,8% so với cùng kỳ năm 2024.

Cũng trong quý I/2025 đã phát hiện 5.738 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 5.158 vụ với tổng số tiền phạt là 70,5 tỷ đồng, giảm 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Trên địa bàn cả nước xảy ra 940 vụ cháy, nổ, làm 19 người chết và 23 người bị thương, thiệt hại ước tính 51,1 tỷ đồng, giảm 28,7% so với cùng kỳ năm trước./.

[1] WB, tháng 01/2025, “Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 01/2025”, https://www.worldbank.org/en/publication/global-economic-prospects, truy cập ngày 24/3/2025.

[2] UN (Tháng 01/2025), “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới tháng 01/2025”, https://www.un.org/development/desa/dpad/publication/world-economic-situation-and-prospects-2025/, truy cập ngày 24/3/2025.

[3] OECD (Tháng 3/2025), “, Báo cáo kinh tế sơ bộ “Vượt qua sự không chắc chắn”, https://www.oecd.org/en/publications/oecd-economic-outlook-interim-report-march-2025_89af4857-en.html, truy cập ngày 24/3/2025.

[4] FR (Tháng 3/2025), “Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 3/2025”, https://www.fitchratings.com/research/sovereigns/global-economic-outlook-march-2025-18-03-2025, truy cập ngày 24/3/2025.

[5] IMF (Tháng 01/2025), “Triển vọng kinh tế thế giới cập nhật – Tăng trưởng toàn cầu: Phân kỳ và không chắc chắn”, https://www.imf.org/en/Publications/WEO/Issues/2025/01/17/world-economic-outlook-update-january-2025, truy cập ngày 24/3/2025.

[6] Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2025; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 08/01/2025 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2025; Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 04/02/2025 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau Tết Nguyên đán; Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực và địa phương đảm bảo mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên.

[7] Tốc độ tăng GDP quý I so với cùng kỳ năm trước các năm 2020-2025 lần lượt là: 3,21%; 4,85%; 5,42%; 3,46%; 5,98% và 6,93%.

[8] Tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 08/01/2025, mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 2025 đạt từ 6,5% – 7,0%, trong đó quý I/2025 đạt 6,2%-6,6%. Tại Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ mục tiêu cao hơn, tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8,0% trở lên, trong đó quý I/2025 đạt 7,7%.

[9] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ quý I so với cùng kỳ năm trước các năm 2020-2025 lần lượt là: 3,03%; 4,51%; 4,99%; 6,99%; 6,24% và 7,70%.

[10] Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2024 tăng 7,49% so với cùng kỳ năm trước.

[11] Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2024 là 11,65%; 36,38%; 43,12%; 8,85%.

[12] Chỉ số giá sản phẩm chăn nuôi lợn quý I/2025 tăng 19,91% so với cùng kỳ năm trước, tháng 3/2025 tăng 23,78% so với cùng kỳ năm trước.

[13] Số liệu Bộ Nông nghiệp và Môi trường đến ngày 15/3/2025.

[14] Tốc độ tăng/ giảm Chỉ số sản xuất công nghiệp quý I các năm 2020-2025 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 5,6%; 5,7%; 6,8%; -2,6%; 5,9%; 7,8%.

[15] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và Kinh tế tập thể, Bộ Tài chính, nhận ngày 02/4/2025. Thực hiện Nghị định số 62/2024/NĐ-CP ngày 07/6/2024 của Chính phủ (có hiệu lực kể từ ngày 01/8/2024), thời kỳ số liệu về đăng ký doanh nghiệp trong tháng được tính từ ngày 01 đến ngày cuối cùng của tháng báo cáo. Riêng đối với các chỉ tiêu thời điểm (doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể), thời kỳ số liệu các tháng trước thời điểm 01/8/2024 được tính từ ngày 21 của tháng trước tháng báo cáo đến ngày 20 của tháng báo cáo.

[16] Chỉ số tương ứng của quý IV/2024: Có 38,0% số doanh nghiệp đánh giá tốt hơn so với quý III/2024; 41,8% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 20,2% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.

[17] Chỉ số tương ứng của quý IV/2024: Có 38,8% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý IV/2024 tăng so với quý III/2024; 40,5% số doanh nghiệp cho rằng ổn định và 20,7% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm.

[18] Chỉ số tương ứng của quý IV/2024: Có 35,5% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý IV/2024 cao hơn quý III/2024; 43,5% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định và 21,0% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm.

[19] Theo báo cáo của Cục cửa khẩu, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, Bộ Quốc phòng và Cục Xuất nhập cảnh,
Bộ Công an ngày 27/3/2025.

[20] Là công dân Việt Nam ra khỏi lãnh thổ Việt Nam bằng đường hàng không.

[21] Gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài.

[22] Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Tài chính, nhận ngày 31/3/2025.

[23] Đầu tư ra nước ngoài do trong tháng 3/2025 chưa xong quy trình cấp phép nên cả tháng 3 không cấp phép, số liệu ba tháng không thay đổi so với hai tháng.

[24] Tốc độ tăng thu ngân sách Nhà nước trong quý I/2025 tăng khá là do kinh tế từ những tháng cuối năm 2024 tăng trưởng tích cực. Bên cạnh đó, công tác quản lý, rà soát nguồn thu, đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế, hoàn thuế; chống thất thu, xử lý nợ đọng thuế cũng đã tác động tích cực đến thu ngân sách Nhà nước.

[25] Kim ngạch xuất khẩu tính theo giá F.O.B và kim ngạch nhập khẩu tính theo giá C.I.F (bao gồm chi phí vận tải, bảo hiểm của hàng nhập khẩu).

[26] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa quý I năm 2024 đạt 178,1 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 92,9 tỷ USD, tăng 16,8%; nhập khẩu đạt 85,2 tỷ USD, tăng 14,1%.

[27] CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và giáo dục.

[28] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.

[29] Điều tra thu nhập của người lao động được tính trễ 01 tháng. Thu nhập của người lao động là số tiền công/tiền lương hoặc lợi nhuận nhận được từ công việc (bao gồm tiền làm thêm giờ, tiền thưởng, tiền phụ cấp nghề và tiền phúc lợi khác) trong tháng trước thời điểm điều tra. Thu nhập bình quân một lao động đang làm việc là tổng thu nhập của tất cả lao động đang làm việc so với tổng số lao động đang làm việc.

[30] Người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động gồm những người có việc làm mong muốn làm thêm giờ; sẵn sàng làm thêm giờ; thực tế làm dưới 35 giờ/tuần.

[31] Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên mà trong thời kỳ tham chiếu có đầy đủ cả 03 yếu tố: Hiện không làm việc, đang tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm giữa số người thất nghiệp so với lực lượng lao động.

[32] Lao động có nhu cầu làm việc nhưng không được đáp ứng đủ công việc (hay còn gọi là lao động không sử dụng hết tiềm năng) bao gồm những người thất nghiệp, thiếu việc làm và một nhóm ngoài lực lượng lao động sẵn sàng làm việc nhưng không tìm việc hoặc có tìm việc nhưng chưa sẵn sàng làm việc ngay. Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là tỷ số giữa lao động có nhu cầu làm việc nhưng không được đáp ứng đầy đủ công việc so với tổng số lao động có nhu cầu làm việc trong nền kinh tế.

[33] Theo báo cáo tổng hợp từ các địa phương, từ đầu năm đến nay

[34] Bao gồm 915,8 tỷ đồng từ nguồn tiết kiệm 5% kinh phí chi thường xuyên năm 2024 của địa phương.

[35] Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Ninh Bình, Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, Bạc Liêu, Trà Vinh, Hà Tĩnh, Tiền Giang, Đồng Tháp, Lâm Đồng.

[36] Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam (Bộ Xây dựng) ngày 29/3/2025.

[37] Tổng hợp Báo cáo từ Chi cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, kỳ báo cáo từ ngày 26/02-25/3/2025.


'Siết' kiểm soát thương mại: Cảnh báo sớm cho doanh nghiệp Việt tại 2 thị trường lớn

(Chinhphu.vn) - Trong bối cảnh thương mại toàn cầu biến động bởi căng thẳng giữa các nền kinh tế lớn, các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Thụy Điển và Ấn Độ đang tăng cường biện pháp kiểm soát hàng nhập khẩu, đặc biệt với các mặt hàng có dấu hiệu gian lận xuất xứ hoặc bán phá giá. (15/05/2025)

Thủ tướng: Buôn lậu, hàng giả là vấn đề lớn, phải ngăn chặn, đẩy lùi và chấm dứt

(Chinhphu.vn) - Sáng 14/5, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì làm việc với các bộ, ngành, cơ quan Trung ương để đánh giá về công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả những tháng đầu năm 2025 và phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới. (14/05/2025)

Xuất khẩu hồ tiêu tăng 58% về giá trị

(Chinhphu.vn) - Tháng 4/2025, Việt Nam xuất khẩu được 26.590 tấn hồ tiêu các loại, so với cùng kỳ năm 2024 thì lượng xuất khẩu chỉ tăng 1,3% nhưng giá trị tăng 58,%. (13/05/2025)

Ngành hoa, cây cảnh có dư địa tăng trưởng lớn

(Chinhphu.vn) - Ngành hoa cây cảnh Việt Nam có cơ hội lớn để phát triển nếu tận dụng tốt tiềm năng và ứng phó tốt với thách thức. Việc kết hợp giữa mô hình sản xuất công nghệ cao, liên kết chuỗi giá trị và chiến lược thị trường thông minh sẽ giúp ngành không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn vươn xa trên bản đồ xuất khẩu thế giới. (12/05/2025)

Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư

(Chinhphu.vn) - Tiếp tục thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh là một trong những nội dung trọng tâm của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp. (09/05/2025)

Đảm bảo đủ than cho sản xuất điện trong giai đoạn nắng nóng

(Chinhphu.vn) - Theo báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), thực hiện mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 của TKV, các đơn vị tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu. (05/05/2025)

Xem thêm