BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
Năm 2024, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường với nhiều yếu tố rủi ro, bất định. Xung đột quân sự tiếp tục leo thang, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, nhiều quốc gia tăng cường chính sách bảo hộ thương mại, nợ công và thâm hụt ngân sách gia tăng, sự tụt dốc của một số nền kinh tế lớn, chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy cục bộ đã tác động đến hòa bình, ổn định và tăng trưởng kinh tế thế giới. Cùng với đó, thiên tai, thời tiết cực đoan ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của dân cư và phát triển kinh tế – xã hội tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, kinh tế thế giới đang dần ổn định khi thương mại hàng hóa toàn cầu được cải thiện trở lại, áp lực lạm phát giảm dần, điều kiện thị trường tài chính tiếp tục được nới lỏng, thị trường lao động phục hồi tích cực. Tính đến tháng 12/2024, hầu hết các tổ chức quốc tế đều giữ nguyên hoặc nâng mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ 0,1 đến 0,3 điểm phần trăm so với các dự báo trước đó, đạt từ 2,7% đến 3,2%, tương đương với mức tăng trưởng năm 2023.
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)[1] và Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)[2] cùng dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2024 đạt 3,2%, giữ nguyên so với dự báo trong tháng 7 và tháng 9 năm 2024; Fitch Ratings (FR)[3] dự báo đạt 2,8%, tăng 0,1 điểm phần trăm; Liên hợp quốc (UN)[4] nhận định tăng trưởng kinh tế thế giới đạt 2,7%, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024.
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)[5] nhận định tăng trưởng năm 2024 của các quốc gia trong khu vực như sau: Xin-ga-po 3,5%, tăng 0,9 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2024; Ma-lai-xi-a 5%, tăng 0,5 điểm phần trăm; Thái Lan 2,6%, tăng 0,3 điểm phần trăm; tăng trưởng của các nước In-đô-nê-xi-a, Phi-li-pin được giữ nguyên lần lượt ở mức 5,0% và 6,0%. Đối với Việt Nam, ADB dự báo tăng trưởng năm 2024 đạt 6,4%, tăng 0,4 điểm phần trăm; Ngân hàng thế giới (WB)[6] dự báo tăng trưởng GDP năm 2024 đạt 6,1%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với dự báo tại thời điểm tháng 4/2024; IMF dự báo đạt 6,1%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2024.
Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự đồng hành của Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành chủ động, linh hoạt, quyết liệt, hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự phối hợp chặt chẽ của các bộ ngành và địa phương; sự đoàn kết, tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; tình hình kinh tế – xã hội nước ta năm 2024 tiếp tục xu hướng phục hồi rõ nét, tăng trưởng khởi sắc dần qua từng tháng, từng quý, lạm phát thấp hơn mức mục tiêu, các cân đối lớn được đảm bảo, kết quả trên nhiều lĩnh vực quan trọng đạt và vượt mục tiêu đề ra, là điểm sáng về tăng trưởng kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý IV và cả năm 2024 như sau:
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ
1. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV/2024 ước tính tăng 7,55% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn quý IV các năm 2017, 2018 trong giai đoạn 2011-2024[7], duy trì xu hướng quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 5,98%, quý II tăng 7,25%, quý III tăng 7,43%). Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,99%, đóng góp 4,86% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,35%, đóng góp 44,03%; khu vực dịch vụ tăng 8,21%, đóng góp 51,11%. Về sử dụng GDP quý IV/2024, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,54% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 7,98%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 11,35%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 13,49%.
GDP năm 2024 ước tính tăng 7,09% so với năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng của các năm 2018, 2019 và 2022 trong giai đoạn 2011-2024[8]. Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,27%, đóng góp 5,37%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,24%, đóng góp 45,17%; khu vực dịch vụ tăng 7,38%, đóng góp 49,46%.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 đạt mức tăng trưởng tích cực 3,27% mặc dù chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ. Trong đó, sản lượng nhiều nông sản tăng cao, chăn nuôi phát triển ổn định, sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng khá. Cụ thể, giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp năm 2024 tăng 2,94% so với năm trước, đóng góp 0,26 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 5,03% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,03%, đóng góp 0,10 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp phục hồi tích cực và tăng trưởng mạnh mẽ so với năm 2023. Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp năm 2024 tăng 8,32% so với năm trước, chỉ thấp hơn mức tăng 8,52% của năm 2022 trong giai đoạn 2019-2024[9], đóng góp 2,70 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,83%, thấp hơn mức tăng các năm 2011, 2016, 2017, 2018 trong giai đoạn 2011-2024[10], đóng góp 2,49 điểm phần trăm. Ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,43%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,05%, đóng góp 0,37 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 7,24%, làm giảm 0,21 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 7,87%, đóng góp 0,57 điểm phần trăm.
Các hoạt động thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ năm 2024 tăng 7,38%, cao hơn tốc độ tăng 6,91% của năm 2023[11]. Một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn, đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như: bán buôn và bán lẻ tăng 7,96% so với năm trước, đóng góp 0,80 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 10,82%, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,11%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 9,76%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,86%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,64%; khu vực dịch vụ chiếm 42,36%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,14% (Cơ cấu tương ứng của năm 2023 là 11,86%; 37,58%; 42,30%; 8,26%).
Về sử dụng GDP năm 2024, tiêu dùng cuối cùng tăng 6,57% so với năm 2023; tích lũy tài sản tăng 7,20%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 15,45%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,10%.
Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2024 ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 476,3 tỷ USD[12]. GDP bình quân đầu người năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 221,9 triệu đồng/lao động (tương đương 9.182 USD/lao động, tăng 726 USD so với năm 2023); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 5,88% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2024 ước đạt 28,3%, cao hơn 1,1 điểm phần trăm so với năm 2023).
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 diễn ra trong điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp, nắng nóng gay gắt, hạn hán ở khu vực Tây Nguyên, miền Trung, xâm nhập mặn tại các tỉnh phía Nam, đặc biệt là ảnh hưởng từ cơn bão số 3 đến các địa phương phía Bắc. Nhưng nhờ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong phòng chống và khắc phục kịp thời ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 duy trì mức tăng trưởng tích cực, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
a) Nông nghiệp
Diện tích lúa cả năm 2024 ước đạt 7,13 triệu ha, tăng 12,0 nghìn ha so với năm trước; năng suất lúa ước đạt 60,9 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha (chủ yếu do năng suất lúa vụ mùa ở các địa phương phía Bắc giảm vì bị ảnh hưởng của cơn bão số 3); sản lượng lúa đạt 43,46 triệu tấn, giảm 33,6 nghìn tấn. Sản lượng lương thực có hạt năm 2024 đạt 47,87 triệu tấn, giảm 65,0 nghìn tấn so với năm 2023, trong đó sản lượng ngô đạt 4,4 triệu tấn, giảm 31,4 nghìn tấn.
Diện tích gieo trồng lúa đông xuân năm 2024 đạt 2,95 triệu ha, tăng 1,5 nghìn ha so với năm 2023; năng suất lúa đạt 68,8 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha; sản lượng đạt 20,33 triệu tấn, tăng 145,0 nghìn tấn.
Diện tích gieo trồng lúa hè thu cả nước đạt 1,91 triệu ha, giảm 3,6 nghìn ha so với năm 2023 do đầu vụ một số địa phương thiếu nước tưới nên không xuống giống được; năng suất đạt 58,4 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha; sản lượng đạt 11,16 triệu tấn, tăng 139,1 nghìn tấn.
Diện tích gieo trồng lúa thu đông năm nay với chủ trương mở rộng sản xuất lúa thu đông của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo trồng được 717,9 nghìn ha, tăng 10,2 nghìn ha so với vụ thu đông 2023; năng suất đạt 57,9 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha; sản lượng đạt 4,16 triệu tấn, tăng 118,5 nghìn tấn.
Vụ mùa năm nay cả nước gieo cấy được 1,55 triệu ha lúa mùa, tăng 3,9 nghìn ha so với vụ mùa năm 2023; năng suất lúa ước đạt 50,4 tạ/ha, giảm 2,9 tạ/ha[13]; sản lượng đạt 7,81 triệu tấn, giảm 436,4 nghìn tấn.
Sản lượng ngô ước đạt 4,4 triệu tấn, giảm 31,4 nghìn tấn; khoai lang ước đạt 971,9 nghìn tấn, tăng 57,1 nghìn tấn; đậu tương ước đạt 46,1 nghìn tấn, giảm 2,1 nghìn tấn.
Năm 2024, diện tích trồng cây lâu năm đạt 3.815,5 nghìn ha, tăng 1,2% so với năm trước, trong đó: nhóm cây công nghiệp đạt 2.172,6 nghìn ha, tăng 0,1%; nhóm cây ăn quả đạt 1.302,8 nghìn ha, tăng 2,6%.
Trong nhóm cây công nghiệp, diện tích cao su đạt 908,9 nghìn ha, giảm 0,3% so với năm trước, sản lượng đạt 1.296,7 nghìn tấn, tăng 2,1%; diện tích cà phê đạt 730,5 nghìn ha, tăng 1,7%, sản lượng đạt 2.016,3 nghìn tấn, tăng 3,0%; diện tích chè đạt 121,9 nghìn ha, giảm 0,5%, sản lượng chè búp đạt 1.149,7 nghìn tấn, tăng 2,2%; diện tích điều đạt 300,8 nghìn ha, giảm 1,4%, sản lượng đạt 330,4 nghìn tấn, giảm 9,2%; diện tích hồ tiêu đạt 110,5 nghìn ha, giảm 2,1%, sản lượng đạt 259,2 nghìn tấn, tăng 0,7%.
Sản lượng một số cây ăn quả như sau: chuối đạt 2.728,5 nghìn tấn, tăng 3,4%; cam đạt 1.888,8 nghìn tấn, tăng 3,6%; sầu riêng đạt 1.503,2 nghìn tấn, tăng 25,7%; xoài đạt 1.053,7 nghìn tấn, tăng 3,1%; thanh long đạt 1.190,9 nghìn tấn, giảm 0,1%. Riêng nhãn và vải được trồng chủ yếu ở các địa phương phía Bắc do ảnh hưởng của cơn bão số 3 nên sản lượng giảm nhiều so với năm trước: nhãn đạt 582,7 nghìn tấn, giảm 11,7%; vải đạt 254,5 nghìn tấn, giảm 33,9%.
Chăn nuôi trâu, bò có xu hướng giảm[14], dịch bệnh cơ bản được kiểm soát. Trong năm 2024, giá thịt lợn hơi tuy có thời điểm giảm nhưng bình quân cả năm vẫn tăng so với năm 2023[15], số lượng lợn tại thời điểm cuối tháng 12/2024 tăng 4,1% so với cùng thời điểm năm trước. Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, các địa phương đẩy mạnh phát triển mô hình chăn nuôi liên kết tạo thành chuỗi khép kín từ trang trại đến bàn ăn, góp phần thúc đẩy hoạt động chăn nuôi phát triển.
Sản lượng một số sản phẩm chăn nuôi chủ yếu
b) Lâm nghiệp
Năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 301,3 nghìn ha, tăng 1,7% so với năm trước (quý IV/2024 đạt 103,3 nghìn ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước); số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 117,5 triệu cây, tăng 2,6% (quý IV/2024 đạt 45,2 triệu cây, tương đương cùng kỳ năm trước); sản lượng gỗ khai thác đạt 23,3 triệu m3, tăng 7,9% (quý IV/2024 đạt 7,2 triệu m3, tăng 9,6%).
Diện tích rừng bị thiệt hại[16] năm 2024, cả nước có 1.627,3 ha rừng bị thiệt hại, giảm 5,5% so với năm trước, trong đó diện tích rừng bị chặt, phá là 885,5 ha, giảm 15,5%; diện tích rừng bị cháy là 741,8 ha, tăng 10,0% do những tháng đầu năm thời tiết nắng nóng, khô hạn kéo dài ở nhiều địa phương, đến những tháng cuối năm thời tiết rét đậm, rét hại thậm chí xảy ra hiện tượng băng tuyết ở một một số địa phương miền núi khiến thực bì chết hàng loạt, làm gia tăng nguy cơ cháy. Tuy nhiên, diện tích rừng bị cháy chủ yếu là rừng phục hồi, tre nứa (khoảng 65%) nên khả năng phục hồi cao.
c) Thủy sản
Sản lượng thủy sản năm 2024 ước đạt 9.547,0 nghìn tấn, tăng 2,5% so với năm trước (quý IV/2024 ước đạt 2.524,5 nghìn tấn, tăng 2,4%); bao gồm: cá đạt 6.773,1 nghìn tấn, tăng 2,2%; tôm đạt 1.385,3 nghìn tấn, tăng 5,1%; thủy sản khác đạt 1.388,6 nghìn tấn, tăng 1,1%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng cả năm 2024 ước đạt 5.721,6 nghìn tấn, tăng 4,0% so với năm trước (quý IV/2024 ước đạt 1.669,8 nghìn tấn, tăng 4,2%), bao gồm: cá đạt 3.826,6 nghìn tấn, tăng 3,9%; tôm đạt 1.246,5 nghìn tấn, tăng 5,6%; thủy sản khác đạt 648,5 nghìn tấn, tăng 1,4%.
Sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 3.825,4 nghìn tấn, tăng 0,3% so với năm trước (quý IV/2024 ước đạt 854,7 nghìn tấn, giảm 0,9%), bao gồm: cá đạt 2.946,5 nghìn tấn, tăng 0,2%; tôm đạt 138,8 nghìn tấn, tăng 0,1%, thủy sản khác đạt 740,1 nghìn tấn, tăng 0,7%. Sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 3.622,7 nghìn tấn, tăng 0,1% so với năm trước, trong đó: cá ước đạt 2.813,8 nghìn tấn, tương đương năm 2023; tôm ước đạt 129,7 nghìn tấn, tăng 0,2%.
3. Sản xuất công nghiệp quý IV/2024 tiếp tục xu hướng tăng trưởng tích cực, các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất chuẩn bị hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cuối năm nên chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp ước tăng 8,4% so với năm trước, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2020 đến nay[17].
Năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 8,4% so với năm trước (năm 2023 tăng 1,3%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,6% (năm 2023 tăng 1,5%), đóng góp 8,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,5%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,7%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 6,5%, làm giảm 1,0 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
IIP năm 2024 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng cao: sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 24,9%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 23,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 21,1%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 13,7%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 12,6%; dệt tăng 12,1%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất và sản xuất thiết bị điện cùng tăng 11,9%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 8,3%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 7,4%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2024 tăng 11,3% so với năm 2023 (năm trước tăng 1,6%). Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/12/2024 tăng 10,0% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 10,6% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 19,8%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân năm 2024 là 77,1% (năm 2023 là 88,0%).
4. Tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường năm 2024 đạt 233,4 nghìn doanh nghiệp, tăng 7,1% so với năm 2023; 197,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 14,7%.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[18]
Năm 2024, cả nước có hơn 157,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là hơn 1.547,0 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 1.001,5 nghìn lao động, giảm 1,4% về số doanh nghiệp, giảm 1,8% về vốn đăng ký và giảm 5,4% về số lao động so với năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2024 đạt 9,8 tỷ đồng, giảm 0,4% so với năm 2023. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong năm 2024 là gần 2.025,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2023.
Bên cạnh đó, cả nước có gần 76,2 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 30,4% so với cùng kỳ năm 2023), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong năm 2024 lên hơn 233,4 nghìn doanh nghiệp, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2023. Bình quân một tháng có gần 19,5 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Cũng trong năm 2024, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là gần 100,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước; gần 76,2 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 16,3%; hơn 21,6 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 20,0%. Bình quân một tháng có gần 16,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Đánh giá về hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của doanh nghiệp[19] quý IV/2024 so với quý III/2024, có 77,3% doanh nghiệp nhận định hoạt động SXKD quý IV/2024 tốt hơn và giữ ổn định so với quý III/2024 (28,6% tốt hơn và 48,7% giữ ổn định); 22,7% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn[20]. So với quý III/2024 tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá thuận lợi hơn quý trước tăng 5,1%; giữ ổn định tăng 0,4% và khó khăn hơn giảm 5,5%. Cụ thể:
Theo ngành kinh tế
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo lạc quan nhất với 79,8% doanh nghiệp đánh giá tình hình SXKD tốt hơn và giữ ổn định (38,0% tốt lên và 41,8% giữ ổn định); 20,2% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn[21].
Ngành thương mại, dịch vụ có 77,6% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD quý IV/2024 so với quý III/2024 tốt hơn và giữ ổn định (24,9% tốt hơn và 52,7% giữ ổn định); 22,4% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn[22].
Ngành xây dựng có 73,7% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD quý IV/2024 so với quý III/2024 tốt hơn và giữ ổn định (29,9% tốt hơn và 43,8% giữ ổn định); 26,3% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn[23].
Theo loại hình kinh tế
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lạc quan nhất với 78,5% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD quý IV/2024 so với quý III/2024 tốt hơn và giữ ổn định (30,7% tốt hơn và 47,8% giữ ổn định); 22,7% đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn.
Doanh nghiệp nhà nước có 77,8% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD quý IV/2024 so với quý III/2024 tốt hơn và giữ ổn định (28,3% tốt hơn và 49,5% giữ ổn định); 22,2% đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn.
Doanh nghiệp ngoài nhà nước có 77,0% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD quý IV/2024 so với quý III/2024 tốt hơn và giữ ổn định (28,3% tốt hơn và 48,7% giữ ổn định); 23,0% đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn.
c) Khoa học và công nghệ
Năm 2024, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững.
Về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII)[24], theo Báo cáo GII 2024 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam được xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023. Trong đó, đầu vào đổi mới sáng tạo tăng 4 bậc so với năm 2023, từ vị trí 57 lên 53; đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 4 bậc so với 2023, từ vị trí 40 lên 36.
Xếp hạng chính phủ điện tử toàn cầu[25], theo Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử năm 2024 (E-Government Development Index – EGDI) của Liên hợp quốc, Việt Nam vươn lên vị trí thứ 71/193 quốc gia, tăng 15 bậc so với năm 2022[26], đây là lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm EGDI ở mức Rất cao và vươn lên vị trí xếp hạng cao nhất kể từ khi bắt đầu tham gia đánh giá EGDI của Liên hợp quốc năm 2003. Về giá trị, chỉ số EGDI của Việt Nam năm 2024 đạt 0,7709 điểm, là một trong những nước có EGDI ở mức Rất cao[27] (có 39,4% các quốc gia được xếp ở nhóm này) và cao hơn so với Chỉ số EGDI trung bình của thế giới (0,6382), của khu vực Châu Á (0,6990), cũng như của khu vực Đông Nam Á (0,6928). Trong bảng Chỉ số tham gia điện tử (EPI) năm 2024, Việt Nam đạt 0,6027, xếp thứ 72 trên thế giới, cao hơn mức trung bình của thế giới (gần 0,5).
Về dịch vụ công trực tuyến, trên cổng dịch vụ công quốc gia[28], tính đến ngày 30/12/2024, số thủ tục hành chính đã cung cấp dịch vụ công trực tuyến là 4.427 thủ tục; 2.645 dịch vụ công cho công dân, 2.409 dịch vụ công cho doanh nghiệp; số hồ sơ đồng bộ trạng thái xử lý lên cổng Dịch vụ công quốc gia khoảng 395,7 triệu hồ sơ; số hồ sơ trực tuyến thực hiện qua cổng Dịch vụ công quốc gia khoảng 61 triệu hồ sơ. Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thông tin và Truyền thông là 02 bộ có số Dịch vụ công trực tuyến cao nhất (số dịch vụ công trực tuyến tương ứng là 264 và 227; số thủ tục hành chính cung cấp dịch vụ công trực tuyến tương ứng là 264 và 217). Đối với các tỉnh, thành phố, UBND tỉnh Thanh Hóa và UBND tỉnh Hòa Bình là 02 tỉnh có số dịch vụ công trực tuyến cao nhất (số dịch vụ công trực tuyến ương ứng là 1.701 và 1.667; số thủ tục hành chính cung cấp dịch vụ công trực tuyến lần lượt là 1.700 và 1.648).
Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông[29], năm 2024 dịch vụ công trực tuyến đã đạt 45,0%, tăng 28,0% so với 2023. Hạ tầng số, thuê bao di động sử dụng điện thoại thông minh đạt 89,8%; tỷ lệ gia đình sử dụng internet cáp quang băng thông rộng đạt 82,9%.
5. Hoạt động thương mại, dịch vụ tiêu dùng, vận tải, du lịch năm 2024 tiếp tục duy trì tăng trưởng. Tính chung năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,0% so với năm trước; vận chuyển hành khách tăng 8,3% và luân chuyển tăng 11,6%; vận chuyển hàng hóa tăng 14,0% và luân chuyển tăng 11,8%; khách quốc tế đến Việt Nam năm 2024 đạt gần 17,6 triệu lượt người, tăng 39,5% so với năm trước và bằng 97,6% năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19; số lượt người Việt Nam xuất cảnh đạt là 5,3 triệu lượt người, tăng 5,5% so với năm 2023.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành quý IV/2024 ước đạt 1.686,1 nghìn tỷ đồng, tăng 5,9% so với quý trước và tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 6.391,0 nghìn tỷ đồng, tăng 9,0% so với năm trước (năm 2023 tăng 9,4%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,9% (năm 2023 tăng 6,8%). So với năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2024 tăng 29,4%, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 31,5% và doanh thu du lịch lữ hành tăng 39,8%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành
Nghìn tỷ đồng
Năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 5.067,6 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 8,3% so với năm trước và luân chuyển đạt 275,4 tỷ lượt khách.km, tăng 11,6%. Vận tải hành khách năm 2024 đã phục hồi và tăng 0,2% về vận chuyển; tăng 11,3% về luân chuyển so với mức sản lượng năm 2019 – năm trước khi xảy ra dịch Covid-19. Vận tải hàng hóa ước đạt 2.670,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,0% so với năm trước và luân chuyển 545,1 tỷ tấn.km, tăng 11,8%.
Năm 2024 đánh dấu bước tiến quan trọng trong phát triển lĩnh vực viễn thông tại Việt Nam. Sau hơn 30 năm hoạt động, từ ngày 16/10/2024, mạng 2G đã “tắt sóng” để nhường chỗ cho các công nghệ mới. Cũng từ tháng 10, các nhà mạng lớn đã chính thức triển khai mạng 5G thương mại tại Việt Nam, mang đến tốc độ truyền tải dữ liệu vượt trội hơn. Công nghệ 5G không chỉ là bước nhảy vọt trong ngành viễn thông mà còn là động lực chiến lược thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện tại Việt Nam.
Doanh thu hoạt động viễn thông năm 2024 ước đạt 355,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,0% so với năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng gần 4,0%). Tổng số thuê bao điện thoại tại thời điểm cuối năm 2024 ước đạt 120,7 triệu thuê bao, giảm 4,6% so với cùng thời điểm năm trước[30]. Số thuê bao truy nhập internet băng rộng cố định tại thời điểm cuối năm ước đạt 23,9 triệu thuê bao, tăng 5,1% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó thuê bao truy cập qua hệ thống cáp quang (FTTH) có xu hướng tăng nhanh và thuê bao qua hình thức xDSL tiếp tục giảm.
Khách quốc tế đến Việt Nam năm 2024 đạt gần 17,6 triệu lượt người, tăng 39,5% so với năm trước và bằng 97,6% năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19. Trong đó, khách đến bằng đường hàng không đạt hơn 14,8 triệu lượt người, chiếm 84,4% lượng khách quốc tế đến Việt Nam và tăng 35,6% so với năm trước; bằng đường bộ đạt gần 2,5 triệu lượt người, chiếm 14,2% và tăng 63,3%; bằng đường biển đạt gần 248,1 nghìn lượt người, chiếm 1,4% và tăng 96,7%.
Khách đến từ châu Á đạt gần 14 triệu lượt người, tăng 43,1% so với năm 2023; khách đến từ châu Âu đạt gần 2,0 triệu lượt người,tăng 36,8%; khách đến từ châu Mỹ đạt hơn 1 triệu lượt người, tăng 10,7%; khách đến từ châu Úc đạt 540,2 nghìn lượt người, tăng 26,2%; khách đến từ châu Phi đạt 50,9 nghìn lượt người, tăng 69,1%.
Số lượt người Việt Nam xuất cảnh[31] trong năm 2024 là 5,3 triệu lượt người, tăng 5,5% so với năm 2023.
6. Năm 2024, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thị trường bảo hiểm dần phục hồi và phát triển theo định hướng, mục tiêu đề ra. Thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu tăng 20,6% so với cuối năm 2023.
Tính đến thời điểm 25/12/2024, tổng phương tiện thanh toán tăng 9,42% so với cuối năm 2023 (cùng thời điểm năm trước tăng 10,34%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 9,06% (cùng thời điểm năm trước tăng 11,19%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 13,82% (cùng thời điểm năm trước tăng 11,48%).
Doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm năm 2024 ước đạt 227,5 nghìn tỷ đồng, giảm 0,25% so với năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ ước đạt 149,2 nghìn tỷ đồng, giảm 5,0%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 78,3 nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% (quý IV/2024 doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm ước tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ giảm 1,1%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 2,8%).
Trên thị trường cổ phiếu, tính đến ngày 31/12/2024, chỉ số VNIndex đạt 1.266,78 điểm, tăng 1,3% so với cuối tháng trước và tăng 12,1% so với cuối năm trước. Mức vốn hóa thị trường ước đạt 7.158,9 nghìn tỷ đồng, tăng 20,6% so với cuối năm 2023; giá trị giao dịch bình quân đạt 21.008 tỷ đồng/phiên, tăng 19,5% so với bình quân năm 2023. Đến cuối tháng 11/2024, thị trường cổ phiếu có 725 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết; 886 mã cổ phiếu đăng ký giao dịch với tổng giá trị niêm yết, đăng ký giao dịch đạt 2.290 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6% so với cuối năm 2023.
Trên thị trường trái phiếu, năm 2024 giá trị giao dịch bình quân đạt 11.802 tỷ đồng/phiên, tăng 81,1% so với bình quân năm 2023. Đến cuối tháng 11/2024, thị trường trái phiếu có 466 mã trái phiếu niêm yết với giá trị niêm yết đạt gần 2.304 nghìn tỷ đồng, tăng 13,5% so với bình quân năm 2023.
Trên thị trường chứng khoán phái sinh, khối lượng giao dịch bình quân trong năm 2024 đạt 211.346 hợp đồng/phiên, giảm 10,2% so với bình quân năm 2023; sản phẩm chứng quyền có bảo đảm đạt 49.556,5 nghìn chứng quyền/phiên, tăng 51,3% và giá trị giao dịch bình quân đạt 42,0 tỷ đồng/phiên, tăng 46,8%.
7. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5% so với năm 2023, cao hơn so với mức tăng 6,6% của cùng kỳ 2023 đã phản ánh sự phục hồi tích cực của hoạt động sản xuất kinh doanh năm nay so với năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam năm 2024 ước đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm trước, đạt mức cao nhất từ năm 2020 đến nay.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2024, theo giá hiện hành ước đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5% so với năm trước (quý IV/2024 ước đạt 1.274,5 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7%), bao gồm: vốn khu vực Nhà nước đạt 1.019,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 27,6% tổng vốn và tăng 5,3%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 2.064,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,9% và tăng 7,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 608,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,5% và tăng 10,6%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam[32] tính đến ngày 31/12/2024 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38,23 tỷ USD, giảm 3,0% so với năm trước. Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 3.502 lượt với tổng giá trị góp vốn 4,54 tỷ USD, giảm 48,1% so với năm trước. Trong đó, có 1.397 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 2,2 tỷ USD; 2.105 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 2,34 tỷ USD.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài năm 2024 có 164 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 603,7 triệu USD, gấp hơn hai lần so với năm trước; có 26 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh 61,1 triệu USD, giảm 55,8%. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (gồm vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 664,8 triệu USD, tăng 57,7% so với năm trước.
8. Thu ngân sách Nhà nước năm 2024 ước tăng 16,2% so với năm trước. Chi ngân sách Nhà nước ước tăng 5,7% so với năm 2023, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.
Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2024 ước đạt 2.037,5 nghìn tỷ đồng, bằng 119,8% dự toán năm và tăng 16,2% so với năm trước. Trong đó: thu nội địa ước đạt 1.706,4 nghìn tỷ đồng, bằng 118,1% dự toán năm và tăng 16,0% so với năm trước; thu từ dầu thô ước đạt 58,6 nghìn tỷ đồng, bằng 127,5% dự toán năm và giảm 5,4% so với năm trước; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 271,3 nghìn tỷ đồng, bằng 133,0% dự toán năm và tăng 24,1% so với năm trước.
Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2024 ước đạt 1.830,8 nghìn tỷ đồng, bằng 86,4% dự toán năm và tăng 5,7% so với năm trước. Trong đó, chi thường xuyên năm 2024 ước đạt 1.190,7 nghìn tỷ đồng, bằng 94,5% dự toán năm và tăng 12,5% so với năm trước; chi đầu tư phát triển ước đạt 529,1 nghìn tỷ đồng, bằng 78,1% và giảm 8,7%; chi trả nợ lãi 108,3 nghìn tỷ đồng, bằng 97,0% và tăng 20,2%.
9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ[33]
a) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[34]
Năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 786,29 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 14,3%; nhập khẩu tăng 16,7%[35]. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 24,77 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa quý IV/2024 đạt 105,9 tỷ USD, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước và giảm 2,5% so với quý III năm 2024. Tính chung cả năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 114,59 tỷ USD, tăng 19,8%, chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 290,94 tỷ USD, tăng 12,3%, chiếm 71,7%. Năm 2024 có 37 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,0%).
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa quý IV/2024 đạt 101,9 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước và tăng 2,2% so với quý III năm 2024. Tính chung cả năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 380,76 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 140,11 tỷ USD, tăng 19,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 240,65 tỷ USD, tăng 15,1%. Có 46 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 93,1% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 6 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 54,0%).
b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Trong năm 2024, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 23,85 tỷ USD, tăng 17,7% so với năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 12,19 tỷ USD (chiếm 51,1% tổng kim ngạch), tăng 33,1% so với năm trước; dịch vụ vận tải đạt 6,52 tỷ USD (chiếm 27,3%), tăng 5,2%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ cả năm 2024 ước đạt 36,19 tỷ USD (trong đó phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm của hàng hóa nhập khẩu là 12,07 tỷ USD), tăng 24,4% so với năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 14,6 tỷ USD (chiếm 40,3% tổng kim ngạch), tăng 16,0%; dịch vụ du lịch đạt 12,57 tỷ USD (chiếm 34,7%), tăng 60,6%.
Nhập siêu dịch vụ năm 2024 là 12,34 tỷ USD.
10. Năm 2024, thị trường hàng hóa toàn cầu chịu ảnh hưởng bởi diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thế giới. Xung đột leo thang ở Nga – U-crai-na, Trung Đông. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt. Bảo hộ thương mại và rào cản thương mại có xu hướng gia tăng khiến cho tình trạng phân mảnh của nền kinh tế toàn cầu diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Trong nước, hoạt động sản xuất hàng hóa, dịch vụ duy trì theo hướng tăng trưởng ổn định, bảo đảm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và phục vụ xuất khẩu. CPI bình quân quý IV/2024 tăng 2,87% so với quý IV/2023. Tính chung cả năm 2024, CPI tăng 3,63% so với năm trước, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Chỉ số giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp, dịch vụ, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất và chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý IV và năm 2024 có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước, riêng chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa giảm theo thị trường thế giới.
a) Chỉ số giá tiêu dùng
CPI bình quân quý IV/2024 tăng 2,87% so với cùng kỳ năm trước, CPI bình quân năm 2024 tăng 3,63% so với năm 2023 đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Lạm phát cơ bản[36] tháng 12/2024 tăng 0,25% so với tháng trước, tăng 2,85% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,71% so với năm 2023, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung (3,63%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 31/12/2024, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.659,6 USD/ounce, giảm 0,62% so với tháng 11/2024 do chịu áp lực từ đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ đều tăng. Trong tháng 12/2024, mặc dù Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) giảm lãi suất 0,25% nhưng tín hiệu thận trọng về lộ trình giảm lãi suất trong năm 2025 đã tác động tiêu cực đến giá vàng, làm giá vàng hạ xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 11/2024. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 12/2024 giảm 1,38% so với tháng trước; tăng 31,07% so với cùng kỳ năm trước; bình quân cả năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 28,64%.
Tính đến ngày 31/12/2024, chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 106,98 điểm, tăng 1,46% so với tháng trước do lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm đạt mức cao, làm đồng đô la Mỹ hấp dẫn hơn với nhà đầu tư. Cùng với đó, chính sách tiền tệ của FED duy trì lãi suất cao và nhu cầu ngoại tệ tăng mạnh vào cuối năm đã góp phần đẩy giá trị đồng đô la Mỹ lên. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do quanh mức 25.488 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2024 tăng 0,09% so với tháng trước; tăng 4,31% so với cùng kỳ năm trước; bình quân năm 2024 tăng 4,91%.
c) Chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản quý IV/2024 tăng 2,07% so với quý III/2024 và tăng 10,05% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 2,06% và tăng 12,51%; lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 1,03% và tăng 2,65%; thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 2,23% và tăng 3,26%. Tính chung năm 2024, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 8,56% so với năm trước. Trong đó, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 11,31%; lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 1,23%; thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 1,02%.
Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý IV/2024 tăng 0,74% so với quý trước và tăng 2,86% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung năm 2024, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất tăng 2,26% so với năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản giảm 0,08%; dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,79%; dùng cho xây dựng tăng 0,31%.
d) Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý IV/2024 giảm 0,87% so với quý trước và tăng 4,59% so với cùng kỳ năm 2023; chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa giảm 0,44% so với quý trước và giảm 1,28% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ giá thương mại hàng hóa (TOT)[37] quý IV/2024 giảm 0,43% so với quý trước và tăng 5,95% so với cùng kỳ năm 2023.
Tính chung năm 2024, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa tăng 1,15% so với năm trước; chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa giảm 1,94%; TOT tăng 3,15%.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Dân số trung bình của Việt Nam năm 2024 là 101,3 triệu người. Chất lượng dân số được cải thiện, mức sinh giảm mạnh và cơ bản duy trì mức sinh thay thế từ năm 2005 trở lại đây. Tỷ lệ tử vong vẫn duy trì ở mức thấp, tuổi thọ trung bình tăng do những thành tựu phát triển của y học và công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được cải thiện. Tình hình lao động, việc làm quý IV/2024 có nhiều dấu hiệu khởi sắc so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Lao động có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động[38] tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động giảm.
Dân số trung bình năm 2024 ước tính 101,3 triệu người, tăng 1.034,5 nghìn người, tương đương tăng 1,03% so với năm 2023. Trong tổng số, dân số thành thị 39,0 triệu người, chiếm 38,5%; dân số nông thôn 62,3 triệu người, chiếm 61,5%; nam 50,6 triệu người, chiếm 49,9%; nữ 50,7 triệu người, chiếm 50,1%. Tỷ số giới tính của dân số năm 2024 là 99,2 nam/100 nữ.
Theo Kết quả Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ thời điểm 01/4/2024, tổng tỷ suất sinh năm 2024 đạt 1,91 con/phụ nữ. Tỷ số giới tính khi sinh là 111,4 bé trai/100 bé gái; tỷ suất sinh thô là 13,9‰; tỷ suất chết thô là 5,6‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi (số trẻ em dưới 1 tuổi tử vong/1.000 trẻ sinh ra sống) là 11,3‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi (số trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/1.000 trẻ sinh ra sống) là 16,9‰. Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2024 là 74,7 tuổi (năm 2023 là 74,5 tuổi), trong đó nam là 72,3 tuổi và nữ là 77,3 tuổi.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý IV/2024 ước tính là 53,2 triệu người, tăng 390,1 nghìn người so với quý trước và tăng 625,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý IV/2024 là 69,0%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024 là 53,0 triệu người, tăng 575,4 nghìn người so với năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,9%, không đổi so với năm trước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2024 là 28,3%, tăng 1,1 điểm phần trăm.
Lao động có việc làm quý IV/2024 ước tính là 52,1 triệu người, tăng 414,9 nghìn người so với quý trước và tăng 639,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, lao động có việc làm là 51,9 triệu người, tăng 585,1 nghìn người (tương ứng tăng 1,1%) so với năm trước.
Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động[39] quý IV/2024 là 764,6 nghìn người, giảm 98,8 nghìn người so với quý trước và giảm 142,0 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý IV/2024 là 1,65%, giảm 0,22 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,32 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 846,8 nghìn người, giảm 74,4 nghìn người so với năm trước; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,84%, giảm 0,18 điểm phần trăm so với năm trước; trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,28%, giảm 0,32 điểm phần trăm; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,20%, giảm 0,07 điểm phần trăm.
Thu nhập bình quân của lao động quý IV/2024 là 8,2 triệu đồng/tháng, tăng 550 nghìn đồng so với quý III/2024 và tăng 890 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung năm 2024, thu nhập bình quân của lao động là 7,7 triệu đồng/tháng, tăng 8,6%, tương ứng tăng 610 nghìn đồng so với năm trước. Trong đó, thu nhập bình quân của lao động nam là 8,7 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 6,5 triệu đồng; thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị là 9,3 triệu đồng/tháng, khu vực nông thôn là 6,7 triệu đồng/tháng.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý IV/2024 là 2,22%, giảm 0,01 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,04 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2024 là 2,24%, giảm 0,04 điểm phần trăm so với năm trước, trong đó khu vực thành thị là 2,53%; khu vực nông thôn là 2,05%.
Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng quý IV/2024 là 3,8%, đều giảm 0,4 điểm phần trăm so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 4,1%, giảm 0,2 điểm phần trăm so với năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 3,7% và khu vực nông thôn là 4,3%.
Lao động làm công việc tự sản tự tiêu quý IV/2024 là 3,7 triệu người, giảm 204,8 nghìn người so với quý trước và tăng 206,7 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, lao động làm công việc tự sản tự tiêu là 3,8 triệu người, tăng 78,6 nghìn người so với năm 2023. Lao động tự sản tự tiêu là nữ giới chiếm 63,8%.
2. Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2024, tình hình thu nhập và đời sống của hộ dân cư được cải thiện. Công tác an sinh xã hội tiếp tục được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương quan tâm thực hiện.
Thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành năm 2024 đạt khoảng 5,4 triệu đồng/người/tháng, tăng 8,8% so với năm 2023. Mức sống tối thiểu của người dân Việt Nam sơ bộ năm 2024 khoảng 1,8 triệu đồng/người/tháng, trong đó khu vực thành thị khoảng 2,3 triệu đồng/người/tháng và khu vực nông thôn khoảng 1,7 triệu đồng/người/tháng. Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều năm 2024 (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025) ước khoảng 2,4%, giảm 1 điểm phần trăm so với năm 2023.
Trong tháng Mười Hai tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập không thay đổi và tăng lên so với năm trước là 96,3%, (tăng 0,1 điểm phần trăm so với kỳ báo cáo tháng 11/2024 và tăng 2,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước); tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập giảm và không biết là 3,7%.
Theo báo cáo tổng hợp từ các địa phương, từ đầu năm đến nay (tính đến ngày 28/12/2024), tổng hỗ trợ cho người có công và thân nhân của người có công với cách mạng là gần 33,9 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cho đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là 27,3 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách xã hội không thuộc Nghị định số 20/2021/NĐ-CP là hơn 4,9 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ bất thường phát sinh tại địa phương là hơn 3,8 nghìn tỷ đồng. Có hơn 26,7 triệu thẻ bảo hiểm xã hội/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ hưởng.
Về hỗ trợ gạo, tính đến ngày 30/12/2024, để kịp thời hỗ trợ gạo cho người dân bị ảnh hưởng nặng nề bởi cơn bão số 3, Chính phủ đã có các quyết định cấp 619,9 tấn gạo hỗ trợ cho người dân. Trong năm 2024, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã hỗ trợ cho người dân gần 22,4 nghìn tấn gạo, trong đó: Chính phủ hỗ trợ 10,4 nghìn tấn gạo cứu đói nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn cho 693,4 nghìn nhân khẩu; 5,9 nghìn tấn gạo cứu đói giáp hạt năm 2024 cho 396,3 nghìn nhân khẩu; gần 1,1 nghìn tấn gạo cứu trợ cho khoảng 70,2 nghìn nhân khẩu do ảnh hưởng của thiên tai. Các địa phương xây dựng kế hoạch, chủ động bố trí ngân sách địa phương và nguồn xã hội hóa để hỗ trợ gần 5 nghìn tấn gạo cho các hộ nghèo, cận nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến hết tháng tháng 11/2024, cả nước có 6.318/8.155 (khoảng 77,5%) xã đạt chuẩn nông thôn mới; trong đó 2.204 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 482 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; bình quân cả nước đạt 17,3 tiêu chí/xã; có 297 đơn vị cấp huyện thuộc 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 14 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Có 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
3. Năm học 2024-2025, ngành Giáo dục xác định chủ đề năm học là “Đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng, đoàn kết kỷ cương”, tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm như: tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giáo dục; đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục cho mọi đối tượng, trong đó, quan tâm đến đối tượng là người dân tộc thiểu số, người sống ở miền núi, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang, ven biển hải đảo, trẻ mồ côi, trẻ em không nơi nương tựa, người khuyết tật, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo; nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên; phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục bảo đảm đủ số lượng và nâng cao về chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo; sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục; tăng cường hội nhập quốc tế trong giáo dục…
Theo số liệu sơ bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm học 2024-2025, cả nước có 15.204 trường mầm non, tăng 48 trường so với năm học trước; 25.783 trường phổ thông, giảm 76 trường do quy hoạch giải thể hoặc sáp nhập thành trường nhiều cấp học. Số giáo viên mầm non trực tiếp giảng dạy là 373,4 nghìn giáo viên, tăng hơn 8,2 nghìn giáo viên; số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy là 819,4 nghìn giáo viên, tăng 22,7 nghìn giáo viên. Cũng trong năm học này, cả nước có gần 4,8 triệu trẻ em bậc mầm non, giảm 7,9% so với năm học 2023-2024 và hơn 18,5 triệu học sinh phổ thông, tăng 1,3%, bao gồm: 8,7 triệu học sinh tiểu học, giảm 1,2%; 6,7 triệu học sinh trung học cơ sở, tăng 3,0% và hơn 3,1 triệu học sinh trung học phổ thông, tăng 5,0%.
Về giáo dục nghề nghiệp, năm 2024, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tính đến tháng 11/2024, cả nước có 1.878 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bao gồm 392 trường cao đẳng (công lập: 291 trường; tư thục: 98 trường; có vốn đầu tư nước ngoài: 03 trường); 428 trường trung cấp (công lập: 199 trường; tư thục: 228 trường; có vốn đầu tư nước ngoài: 01 trường); 1.058 Trung tâm giáo dục nghề nghiệp, Trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên (công lập: 698 trung tâm; tư thục: 358 trung tâm, có vốn đầu tư nước ngoài: 02 trung tâm)[40].
4. Tình hình dịch bệnh năm 2024 tuy được kiểm soát nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ lây lan, ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người dân.
Theo báo cáo của Bộ Y tế, trong tháng (19/11-18/12/2024), cả nước có 21.401 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (03 trường hợp tử vong); 8.042 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 44 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút; 16.339 trường hợp sốt phát ban nghi sởi (03 trường hợp tử vong); 01 người mắc bệnh bạch hầu bị tử vong và 06 người tử vong do bệnh dại. Tính chung cả năm 2024, cả nước có 136,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (24 trường hợp tử vong); 75,9 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 576 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (06 trường hợp tử vong); 22 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu; 30,6 nghìn trường hợp sốt phát ban nghi sởi (08 trường hợp tử vong); 80 người tử vong do bệnh dại; 11 trường hợp mắc bệnh bạch hầu (02 trường hợp tử vong); 01 người mắc cúm A bị tử vong.
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/12/2024 là 245,8 nghìn người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 116 nghìn người.
Về ngộ độc thực phẩm năm 2024 (từ ngày 19/12/2023 đến ngày 18/12/2024) cả nước xảy ra 112 vụ với 4.237 người bị ngộ độc (15 trường hợp tử vong).
5. Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được các địa phương quan tâm và thực hiện. Thể thao thành tích cao đạt được một số kết quả nổi bật.
Năm 2024, các hoạt động văn hóa diễn ra sôi nổi trên khắp cả nước, kết nối, lan tỏa tình đoàn kết giữa nhân dân cả nước và truyền bá hình ảnh về phẩm chất tốt đẹp về con người Việt Nam với bạn bè quốc tế. Các hoạt động văn hóa tiểu biểu trong năm 2024 như: Hoạt động văn hóa kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh – Liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2024); các hoạt động văn hóa chào mừng kỷ niệm 79 năm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 như: Chương trình diễu hành áo dài với tên gọi “Áo dài kết nối du lịch và di sản Hà Nội năm 2024”, giải chạy “Hoa Lư Marathon 2024 – Miền đất di sản thiên niên kỷ”, lễ hội khinh khí cầu tại Quảng Ninh ngày 01/9, lễ hội đua thuyền truyền thống trên sông Nhật Lệ (Quảng Bình)… Ngoài ra còn một số các hoạt động văn hóa nổi bật khác như: Chương trình nghệ thuật thực cảnh “Việt Nam – Huyền sử diễn ca: Thăng Long – Tứ trấn” tổ chức tại khu di sản Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội ngày 29/12; Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội lần thứ 7; Liên hoan Múa quốc tế 2024; Liên hoan nhạc Jazz quốc tế; Lễ hội thiết kế sáng tạo Hà Nội 2024; concert của các chương trình Anh trai vượt ngàn chông gai, Anh trai say hi; chương trình Jazz quốc tế lần thứ I – Nha Trang 2024, thành công của các bộ phim “Đào, Phở và Piano”, “Lật mặt”… đã tạo được hiệu ứng tích cực, góp phần thúc đẩy phát triển ngành văn hóa.
Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng trong năm qua tiếp tục được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng gắn với cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Các hoạt động thể dục thể thao quần chúng tạo ra các sân chơi lành mạnh nâng cao sức khỏe cho cộng đồng dân cư đồng thời giúp cho hoạt động thể thao thành tích cao phát hiện và tuyển chọn được những nhân tố, vận động viên năng khiếu để tập luyện, đào tạo lực lượng vận động viên kế cận, tham gia đội tuyển quốc gia tranh tài tại các đấu trường quốc tế trong khu vực.
Năm 2024, Thể thao Việt Nam tham gia nhiều giải thi đấu quốc tế và giành được 1.365 huy chương quốc tế (trong đó 542 huy chương vàng, 406 huy chương bạc, 417 huy chương đồng). Trong đó, tiêu biểu như: Lần đầu tiên đội tuyển Fusal nữ giành chức vô địch Đông Nam Á; vận động viên Trịnh Thu Vinh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tại Olympic Paris 2024 với 02 lần vào chung kết 02 nội dung là 10m súng ngắn hơi và 25m súng ngắn thể thao (trong đó, nội dung 10m súng ngắn hơi Trịnh Thu Vinh đứng hạng 4 chung cuộc). Đội tuyển Bóng chuyền nữ lần đầu tiên giành huy chương đồng thế giới và lần thứ 2 giành huy chương vàng Cúp Bóng chuyền châu Á, Đội tuyển bóng đá nam quốc gia giành quyền vào chung kết ASEAN Cup 2024; lực sĩ Lê Văn Công giành huy chương đồng Paralympic Paris 2024 ở môn cử tạ giúp đoàn Thể thao người khuyết tật Việt Nam có kỳ Paralympic thứ ba liên tiếp giành huy chương sau các năm 2016 và 2021[41].
6. Tai nạn giao thông[42]
Năm 2024, trên địa bàn cả nước xảy ra 23.484 vụ tai nạn giao thông, làm 10.944 người chết và 17.342 người bị thương. So với năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 0,7%; số người chết giảm 7,7% và số người bị thương tăng 4,2%. Bình quân 1 ngày trong năm 2024, trên địa bàn cả nước xảy ra 64 vụ tai nạn giao thông, làm 30 người chết và 47 người bị thương.
7. Thiệt hại do thiên tai[43], ô nhiễm môi trường và cháy, nổ ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người dân ở một số địa phương.
Năm 2024, thiên tai làm 570 người chết và mất tích; 2.204 người bị thương; 302,4 nghìn ha lúa và 111,4 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 5,4 triệu con gia súc và gia cầm bị chết; 296,8 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong năm 2024 ước tính gần 89.253,6 tỷ đồng, gấp 17,5 lần năm 2023.
Trong năm nay đã phát hiện 21.108 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 19.327 vụ với tổng số tiền phạt là 315,6 tỷ đồng, tăng 11,9% so với năm trước. Trên địa bàn cả nước xảy ra 4.116 vụ cháy, nổ, làm 106 người chết và 115 người bị thương, thiệt hại ước tính 466,1 tỷ đồng, tăng 1,0% so với năm trước ./.
[1] IMF (Tháng 10/2024), “Triển vọng kinh tế thế giới – Chính sách xoay trục, mối đe dọa gia tăng”, https://www.imf.org/-/media/Files/Publications/WEO/2024/October/English/text.ashx, truy cập ngày 27/12/2024.
[2] OECD (Tháng 12/2024), “Báo cáo Triển vọng kinh tế OECD tháng 12/2024t”, https://www.oecd.org/en/publications/oecd-economic-outlook-volume-2024-issue-2_d8814e8b-en.html, truy cập ngày 27/12/2024.
[3] FR (Tháng 12/2024), “Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 12/2024”, https://www.fitchratings.com/research/sovereigns/global-economic-outlook-december-2024-05-12-2024, truy cập ngày 27/12/2024.
[4] UN (Tháng 9/2024), “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới – cập nhật tháng 9/2024”, https://www.un.org/development/desa/dpad/wp-content/uploads/sites/45/WESP-2024_September_2024_WEB.pdf, truy cập ngày 31/12/2024.
[5] ADB (Tháng 12/2024), “Triển vọng phát triển châu Á tháng 12/2024”, https://www.adb.org/publications/asian-development-outlook-december-2024, truy cập ngày 27/12/2024.
[6] WB, tháng 10/2024, “Cập nhật tình hình kinh tế Đông Á – Thái Bình Dương – Việc làm và công nghệ”, https://www.worldbank.org/en/publication/east-asia-and-pacific-economic-update, truy cập ngày 27/12/2024.
[7] Tốc độ tăng GDP quý IV các năm 2011-2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 7,05%; 5,99%; 6,38%; 7,29%; 7,38%; 7,49%; 8,18%; 7,78%; 7,52%; 4,69%; 5,23%; 6,26%; 6,76% và 7,55%.
[8] Tốc độ tăng GDP các năm 2011-2024 lần lượt là: 6,41%; 5,50%; 5,55%; 6,42%; 6,99%; 6,69%; 6,94%; 7,47%; 7,36%; 2,87%; 2,55%; 8,54%; 5,07% và 7,09%
[9] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp các năm 2019-2024 so với năm trước lần lượt là: 8,14%; 3,77%; 4,06%; 8,52%; 2,99% và 8,32%.
[10] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo các năm 2011-2024 so với năm trước lần lượt là: 12,59%; 8,38%; 6,50%; 6,50%; 9,19%; 11,14%; 12,13%; 11,48%; 9,59%; 4,99%; 5,37%; 8,99%; 3,61%
và 9,83%.
[11] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ các năm 2011-2024 so với năm trước lần lượt là: 7,65%; 7,03%; 6,82%; 7,31%; 7,05%; 7,46%; 7,12%; 7,46%; 8,08%; 2,01%; 1,75%; 10,66%; 6,91% và 7,38%.
[12] Tỷ giá trung tâm VND/USD bình quân năm 2024 là 24.170,59 đồng.
[13] Nguyên nhân chủ yếu do năng suất lúa mùa Miền Bắc giảm (giảm 4,9 tạ/ha) do ảnh hưởng của cơn bão số 3. Theo đó sản lượng các địa phương phía Bắc giảm 584,8 nghìn tấn.
[14] Chăn nuôi trâu, bò lấy thịt giảm chủ yếu do điều kiện chăn nuôi khó khăn, chi phí chăn nuôi cao, lợi nhuận mang lại thấp, dẫn đến việc giảm số lượng đầu con. Tuy nhiên, đàn bò sữa vẫn phát triển ổn định.
[15] Chỉ số giá sản phẩm thịt lợn hơi cả năm tăng 6,59% so với năm trước.
[16] Số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tính đến 15/12/2024.
[17] Chỉ số sản xuất công nghiệp các năm 2020-2024 so với năm trước lần lượt tăng là: 3,3%; 4,7%; 7,4%; 1,3%; 8,4%.
[18] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 02/01/2025. Thực hiện Nghị định số 62/2024/NĐ-CP ngày 07/6/2024 của Chính phủ (có hiệu lực kể từ ngày 01/8/2024), thời kỳ số liệu về đăng ký doanh nghiệp trong tháng được tính từ ngày 01 đến ngày cuối cùng của tháng báo cáo. Riêng đối với các chỉ tiêu thời điểm (doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể), thời kỳ số liệu các tháng trước thời điểm 01/8/2024 được tính từ ngày 21 của tháng trước tháng báo cáo đến ngày 20 của tháng báo cáo.
[19] Để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quý IV năm 2024, Tổng cục Thống kê tiến hành khảo sát 30.576 doanh nghiệp, bao gồm: 6.327 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; 6.393 doanh nghiệp ngành xây dựng; 17.856 doanh nghiệp ngành thương mại, dịch vụ, đại diện cho 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
[20] Quý III/2024: 71,8% doanh nghiệp đánh giá tình hình SXKD tốt hơn và giữ ổn định (23,5% tốt lên và 48,3% giữ ổn định); 28,2% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn.
[21] Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý III/2024: 77,3% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD quý III/2024 so với quý II/2024 tốt hơn và giữ ổn định (34,7% tốt hơn và 42,6% giữ ổn định); 22,7% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn.
[22] Chỉ số tương ứng của ngành thương mại, dịch vụ quý III/2024: 71,8% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD quý III/2024 so với quý II/2024 tốt hơn và giữ ổn định (18,7% tốt hơn và 53,1% giữ ổn định); 28,2% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn.
[23] Chỉ số tương ứng của ngành xây dựng quý III/2024: 66,5% doanh nghiệp đánh giá tình hình SXKD tốt hơn và giữ ổn định (25,7% tốt lên và 40,8% giữ ổn định); 33,5% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn.
[24] https://baochinhphu.vn/viet-nam-tiep-tuc-thang-hang-chi-so-doi-moi-sang-tao-toan-cau-102240926195157563.htm truy cập ngày 04/01/2025.
[25] https://publicadministration.un.org/egovkb/en-us/Data/Country-Information/id/189-Viet-Nam truy cập ngày 04/01/2025.
[26] EGDI khảo sát 2 năm 1 lần.
[27] EGDI được chia làm 04 mức (Rất cao: Chỉ số lớn hơn 0,75; Cao: Chỉ số từ 0,5 đến 0,75; Trung bình: Chỉ số từ 0,25 đến 0,5; Thấp: Nhỏ hơn 0,25).
[28] https://dichvucong.gov.vn/p/home/dvc-dich-vu-cong-truc-tuyen.html (truy cập ngày 31/12/2024)
[29] https://baochinhphu.vn/hop-nhat-bo-tttt-va-bo-khcn-de-cong-huong-nguon-luc-tao-nen-suc-manh-moi-102241229145832768.htm (truy cập ngày 04/01/2025)
[30] Trong đó: số thuê bao di động là 118,4 triệu thuê bao, giảm 4,6% do các nhà mạng dừng cung cấp dịch vụ đối với các thuê bao 2G trên toàn quốc và ngành Thông tin và Truyền thông tăng cường quản lý thuê bao di động trả trước, kiểm soát, hạn chế tối đa, tiến tới xóa bỏ SIM rác nên số lượng thuê bao di động đăng ký mới giảm đáng kể
[31] Là công dân Việt Nam xuất cảnh qua cửa khẩu của Việt Nam.
[32] Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 01/01/2025.
[33] Kim ngạch xuất khẩu tính theo giá F.O.B và kim ngạch nhập khẩu tính theo giá C.I.F (bao gồm chi phí vận tải, bảo hiểm của hàng nhập khẩu).
[34] Số liệu sơ bộ xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa tháng 12/2024 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 03/01/2025.
[35] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2023 đạt 681,1 tỷ USD, giảm 6,9% so với năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 354,7 tỷ USD, giảm 4,6%; nhập khẩu đạt 326,4 tỷ USD, giảm 9,2%.
[36] CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và giáo dục.
[37] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
[38] Điều tra thu nhập của người lao động được tính trễ 01 tháng. Thu nhập của người lao động là số tiền công/tiền lương hoặc lợi nhuận nhận được từ công việc (bao gồm tiền làm thêm giờ, tiền thưởng, tiền phụ cấp nghề và tiền phúc lợi khác) trong tháng trước thời điểm điều tra. Thu nhập bình quân một lao động đang làm việc là tổng thu nhập của tất cả lao động đang làm việc so với tổng số lao động đang làm việc.
[39] Người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động gồm những người có việc làm mong muốn làm thêm giờ; sẵn sàng làm thêm giờ; thực tế làm dưới 35 giờ/tuần.
[40] Trong 6 tháng đầu năm 2024, cả nước đã tuyển sinh 1.042 nghìn người, đạt 42,9% kế hoạch năm, (trong đó: Trình độ cao đẳng, trung cấp tuyển sinh được 87 nghìn người; trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề khác tuyển sinh được 955 nghìn người); có 845 nghìn người tốt nghiệp, đạt 39,4% kế hoạch (trong đó: Trình độ cao đẳng, trung cấp là 136 nghìn người tốt nghiệp; sơ cấp và các chương trinh đào tạo nghề khác là 709 nghìn người).
[41] https://tdtt.gov.vn/chi-dao-dieu-hanh/hoat-dong-nganh/id/88719/nam-2024-nganh-tdtt-viet-nam-hoan-thanh-nhieu-nhiem-vu-duoc-giao
[42] Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải) ngày 29/12/2024.
[43] Tổng hợp Báo cáo từ Cục Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, kỳ báo cáo từ ngày 26/11-25/12/2024.
'Thời điểm vàng' để người trẻ sở hữu nhà ở
"Thời điểm vàng" để người trẻ sở hữu căn nhà mơ ước đang mở ra, khi các ngân hàng vào cuộc, có thể vay tới 50 năm với các mức lãi suất thấp nhất trong nhiều năm qua, chỉ từ 3,5%. (26/03/2025)
Thủ tướng chỉ thị thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 25/3/2025 về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. (25/03/2025)
Bộ Nội vụ: Đề xuất mới về số lượng cấp phó tối đa phù hợp với sắp xếp, tinh gọn bộ máy
Bộ Nội vụ đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ; tiêu chí thành lập, số lượng cấp phó tối đa của người đứng đầu tổ chức, đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ. (24/03/2025)
Phó Thủ tướng Mai Văn Chính kiểm tra, đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công tại 9 bộ, cơ quan Trung ương
Sáng 21/3, Phó Thủ tướng Mai Văn Chính đã chủ trì cuộc họp về tình hình phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công và khó khăn, vướng mắc của các bộ, cơ quan Trung ương trong 2 tháng năm 2025 thuộc Tổ công tác số 7. (21/03/2025)
Học tập suốt đời: Chiến lược giúp Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới
Chính sách miễn học phí từ mầm non đến hết cấp ba và tầm quan trọng của học tập suốt đời... đang nhận được nhiều sự quan tâm và ủng hộ trong xã hội. PGS.TS. Nguyễn Đắc Vinh, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội đã có những chia sẻ sâu sắc về tác động của các chính sách này đối với sự phát triển của đất nước. (20/03/2025)
Thúc đẩy liên kết giao dịch hàng hóa giữa Việt Nam và ASEAN
Sáng 19/3 tại Hà Nội, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (MXV) đã tổ chức tập huấn cho các thành viên kinh doanh, thành viên môi giới của MXV, tập trung vào chủ đề “Phương pháp phân tích thị trường và xây dựng ý tưởng giao dịch”. (19/03/2025)