Một số địa phương thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo Thông tư số 21/2024/TT-BYT, giá nhà ở thuê, giá xăng dầu tăng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2024 tăng 0,29% so với tháng trước. So với tháng 12/2023, CPI tháng Mười Hai tăng 2,94%.
CPI bình quân quý IV/2024 tăng 2,87% so với quý IV/2023. Tính chung cả năm 2024, CPI tăng 3,63% so với năm trước, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra.
Trong mức tăng 0,29% của CPI tháng 12/2024 so với tháng trước, có 09 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 02 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.
Chín nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
– Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,19%, trong đó chỉ số giá nhóm dịch vụ y tế tăng 2,84% do một số địa phương điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo mức lương cơ sở 2.340.000 đồng. Bên cạnh đó, thời tiết chuyển sang mùa đông, nhiệt độ chênh lệch nhiều giữa ban ngày và ban đêm nên bệnh cảm cúm, đường hô hấp gia tăng, nhu cầu tiêu dùng các loại thuốc về giảm đau, hạ sốt, đường hô hấp, vitamin và khoáng chất của người dân tăng. Cụ thể, giá nhóm thuốc giảm đau, thuốc hạ sốt tăng 0,27%; hóc môn và các thuốc tác động vào hệ nội tiết tăng 0,23%; thuốc tác dụng trên đường hô hấp tăng 0,15%; thuốc tim mạch tăng 0,13%; thuốc vitamin và khoáng chất và thuốc chống dị ứng tăng 0,12%.
– Nhóm giao thông tăng 0,57%, chủ yếu do: Nhu cầu của người dân di chuyển tăng vào dịp cuối năm làm cho giá vận tải hành khách bằng đường sắt tăng 4,03%; vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 2,06%; vận tải hành khách bằng taxi tăng 1,24%; vận tải hành khách bằng xe buýt tăng 0,16%; vận tải hành khách đường bộ tăng 0,11%; vận tải hành khách bằng đường thủy tăng 0,09%. Giá xăng tăng 1,21%; giá dầu mỡ nhờn tăng 0,16% theo các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,3%; dịch vụ khác đối với phương tiện vận tải cá nhân tăng 0,11%; giá phương tiện đi lại tăng 0,14%, trong đó giá xe máy tăng 0,23%; xe đạp tăng 0,17%; xe ô tô mới tăng 0,08%; giá phụ tùng tăng 0,11%, trong đó giá lốp, săm xe máy tăng 0,16%; lốp, săm xe đạp tăng 0,14%; phụ tùng khác của xe máy tăng 0,13%. Riêng giá dầu diezen giảm 0,07% do các đợt điều chỉnh giá trong tháng.
– Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,53%, chủ yếu tăng giá ở một số mặt hàng sau: Giá thuê nhà tăng 0,76% do nhu cầu thuê chung cư, nhà trọ tăng, bên cạnh đó giá bất động sản tăng cao trong thời gian qua làm cho giá thuê nhà tăng; giá điện sinh hoạt tăng 0,75% do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân từ ngày 11/10/2024; giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,44%; giá dịch vụ khác liên quan đến nhà ở tăng 0,12% do nhu cầu tăng vào dịp cuối năm; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,11% do giá xi măng, giá thép tăng theo nhu cầu tiêu dùng. Ở chiều ngược lại, giá nước sinh hoạt giảm 0,03% do thời tiết vào mùa đông nên nhu cầu tiêu dùng giảm; giá dầu hỏa giảm 0,98% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng.
– Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,28% do chi phí nhân công, chi phí vật liệu và nhu cầu mua sắm tăng vào dịp cuối năm. Trong đó, giá may mặc khác tăng 0,44%; quần áo may sẵn tăng 0,39%; dịch vụ may mặc tăng 0,29%; vải các loại tăng 0,26%; dịch vụ giày, dép tăng 0,2%; mũ nón tăng 0,17%.
– Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,22%, trong đó, giá dịch vụ về hỉ tăng 0,53% do nhu cầu tăng cao vào dịp cuối năm; sửa chữa đồng hồ đeo tay tăng 0,6%; hàng chăm sóc cơ thể tăng 0,43%; dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng 0,33%; cắt tóc gội đầu tăng 0,47%.
– Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,2%, tập trung chủ yếu ở những mặt hàng như du lịch trong nước tăng 1,23%; phí truyền hình và internet tăng 0,23%; du lịch nước ngoài tăng 0,22%; dịch vụ liên quan đến vật nuôi tăng 0,21%.
– Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,2%, chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng tăng vào dịp Giáng sinh và chuẩn bị cho dịp Tết sắp tới. Cụ thể: Giá nước uống tăng lực đóng chai, lon, hộp tăng 0,49%; nước quả ép tăng 0,11%; nước khoáng tăng 0,04%; rượu các loại tăng 0,29%; thuốc hút tăng 0,28%; bia các loại tăng 0,14%.
– Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,17% do nhu cầu tiêu dùng tăng vào mùa cưới và thời tiết chuyển sang mùa đông. Trong đó, giá bếp đun không dùng điện, ga tăng 1,4%; giá dịch vụ trong gia đình tăng 0,79%; bàn là điện tăng 0,48%; đồ nhựa và cao su tăng 0,47%; thuê đồ dùng trong gia đình tăng 0,31%; tủ lạnh tăng 0,29%; giường, tủ, bàn ghế tăng 0,22%; vật phẩm tiêu dùng khác tăng 0,21%; sửa chữa thiết bị gia đình tăng 0,2%; hàng thủy tinh, sành, sứ tăng 0,17%; máy điều hòa nhiệt độ tăng 0,14%; đèn điện thắp sáng tăng 0,13%; đồ điện khác tăng 0,1%.
– Nhóm giáo dục tăng 0,16%, trong đó giá dịch vụ giáo dục đại học tăng 0,52% do một số trường đại học tăng học phí. Ngoài ra, giá sản phẩm từ giấy tăng 0,12%; giá bút viết tăng 0,38%.
Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:
– Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,03%, trong đó, giá máy điện thoại cố định và máy điện thoại di động thông thường cùng giảm 0,05%; giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 0,62%; giá sửa chữa điện thoại giảm 0,07%; phụ kiện máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng tăng 0,05%.
– Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,13%, trong đó, chỉ số giá nhóm thực phẩm giảm 0,3%[1]; ngược lại, nhóm lương thực tăng 0,26%[2]; nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,14%[3].
CPI bình quân quý IV/2024 tăng 2,87% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Hàng hóa và dịch khác tăng 6,97%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 6,29%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,81%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,15%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,33%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 2,20%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,41%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,14%; bưu chính, viễn thông giảm 0,52%; giáo dục giảm 0,81%; giao thông giảm 2,49%.
CPI bình quân năm 2024 tăng 3,63% so với năm 2023, dưới mức mục tiêu Quốc hội đề ra, do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
(i) Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,03% so với năm trước, tác động làm CPI chung tăng 1,35 điểm phần trăm. Trong đó, chỉ số giá: Nhóm lương thực tăng 12,19%, tác động làm CPI tăng 0,45 điểm phần trăm, trong đó giá gạo tăng 15,93% theo giá gạo xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng tăng trong dịp Lễ, Tết, làm CPI chung tăng 0,41 điểm phần trăm; nhóm thực phẩm tăng 2,7%, làm CPI chung tăng 0,58 điểm phần trăm; nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 3,99% do nhu cầu tiêu dùng và chi phí nhân công tăng.
(ii) Chỉ số giá nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,2% so với năm trước, tác động làm CPI chung tăng 0,98 điểm phần trăm, chủ yếu do chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 7,68% do nhu cầu sử dụng điện tăng cùng với việc EVN điều chỉnh mức bán lẻ giá điện bình quân làm CPI chung tăng 0,25 điểm phần trăm; chỉ số giá nhà ở thuê và nhà chủ sở hữu tính quy đổi tăng 4,6% do nhu cầu thuê nhà tăng, tác động làm CPI tăng 0,48 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, chỉ số giá nước sinh hoạt năm 2024 tăng 8,33% so với năm trước.
(iii) Chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,16%, tác động làm CPI chung tăng 0,39 điểm phần trăm do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT từ ngày 17/11/2023 và Thông tư số 21/2024/TT-BYT từ ngày 17/10/2024 của Bộ Y tế.
(iv) Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 5,37% do trong năm học 2023-2024 và 2024-2025 một số địa phương đã tăng mức học phí, tác động làm CPI chung tăng 0,33 điểm phần trăm.
(v) Chỉ số giá nhóm giao thông tăng 0,76%, tác động làm CPI chung tăng 0,07 điểm phần trăm.
Yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI năm 2024 là: Chỉ số giá nhóm bưu chính, viễn thông năm 2024 giảm 1,02% so với năm 2023 do giá điện thoại thế hệ cũ giảm khi các doanh nghiệp áp dụng chương trình giảm giá, kích cầu đối với dòng điện thoại thông minh.
Lạm phát cơ bản[4] tháng 12/2024 tăng 0,25% so với tháng trước, tăng 2,85% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,71% so với năm 2023, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung (3,63%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 31/12/2024, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.659,6 USD/ounce, giảm 0,62% so với tháng 11/2024 do chịu áp lực từ đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ đều tăng. Trong tháng 12/2024, mặc dù Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) giảm lãi suất 0,25% nhưng tín hiệu thận trọng về lộ trình giảm lãi suất trong năm 2025 đã tác động tiêu cực đến giá vàng, làm giá vàng hạ xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 11/2024. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 12/2024 giảm 1,38% so với tháng trước; tăng 31,07% so với cùng kỳ năm trước; bình quân cả năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 28,64%.
Tính đến ngày 31/12/2024, chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 106,98 điểm, tăng 1,46% so với tháng trước do lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm đạt mức cao, làm đồng đô la Mỹ hấp dẫn hơn với nhà đầu tư. Cùng với đó, chính sách tiền tệ của FED duy trì lãi suất cao và nhu cầu ngoại tệ tăng mạnh vào cuối năm đã góp phần đẩy giá trị đồng đô la Mỹ lên. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do quanh mức 25.488 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2024 tăng 0,09% so với tháng trước; tăng 4,31% so với cùng kỳ năm trước; bình quân năm 2024 tăng 4,91%.
[1] Giá nhóm rau tươi, khô và chế biến giảm 3,66%; giá trứng các loại giảm 0,68%; giá quả tươi chế biến giảm 0,48%; giá thịt chế biến khác giảm 0,28%; thịt gia súc đông lạnh giảm 0,05%; giá sữa, bơ, phô mai giảm 0,04%. Ở chiều ngược lại, một số mặt hàng có giá tăng so với tháng trước: Giá thủy sản tươi sống tăng 0,66%; giá đường mật tăng 0,34%; chè, cà phê, ca cao tăng 0,26%; đồ gia vị tăng 0,16%; bánh, mứt, kẹo tăng 0,11%; giá thịt gia cầm tăng 0,12%.
[2] Giá gạo trong nước tăng do nhu cầu tiêu dùng tăng vào dịp cuối năm và ảnh hưởng của mưa bão nên sản lượng lúa giảm, theo đó, chỉ số giá nhóm gạo tăng 0,39% (Gạo nếp tăng 0,72%; gạo tẻ ngon tăng 0,42%; gạo tẻ thường tăng 0,37%). Bên cạnh đó, một số mặt hàng lương thực tăng giá như giá ngũ cốc ăn liền tăng 0,39%; ngũ cốc khác và bánh mì cùng tăng 0,24%; miến tăng 0,18%; bún, bánh phở, bánh đa tăng 0,15%; bột ngô tăng 0,27% và bột mỳ tăng 0,11%.
[3] Giá đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,27%; giá uống ngoài gia đình tăng 0,21%; giá ăn ngoài gia đình tăng 0,11%.
[4] CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và giáo dục.
'Siết' kiểm soát thương mại: Cảnh báo sớm cho doanh nghiệp Việt tại 2 thị trường lớn
(Chinhphu.vn) - Trong bối cảnh thương mại toàn cầu biến động bởi căng thẳng giữa các nền kinh tế lớn, các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Thụy Điển và Ấn Độ đang tăng cường biện pháp kiểm soát hàng nhập khẩu, đặc biệt với các mặt hàng có dấu hiệu gian lận xuất xứ hoặc bán phá giá. (15/05/2025)
Thủ tướng: Buôn lậu, hàng giả là vấn đề lớn, phải ngăn chặn, đẩy lùi và chấm dứt
(Chinhphu.vn) - Sáng 14/5, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì làm việc với các bộ, ngành, cơ quan Trung ương để đánh giá về công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả những tháng đầu năm 2025 và phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới. (14/05/2025)
Xuất khẩu hồ tiêu tăng 58% về giá trị
(Chinhphu.vn) - Tháng 4/2025, Việt Nam xuất khẩu được 26.590 tấn hồ tiêu các loại, so với cùng kỳ năm 2024 thì lượng xuất khẩu chỉ tăng 1,3% nhưng giá trị tăng 58,%. (13/05/2025)
Ngành hoa, cây cảnh có dư địa tăng trưởng lớn
(Chinhphu.vn) - Ngành hoa cây cảnh Việt Nam có cơ hội lớn để phát triển nếu tận dụng tốt tiềm năng và ứng phó tốt với thách thức. Việc kết hợp giữa mô hình sản xuất công nghệ cao, liên kết chuỗi giá trị và chiến lược thị trường thông minh sẽ giúp ngành không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn vươn xa trên bản đồ xuất khẩu thế giới. (12/05/2025)
Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư
(Chinhphu.vn) - Tiếp tục thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh là một trong những nội dung trọng tâm của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp. (09/05/2025)
Đảm bảo đủ than cho sản xuất điện trong giai đoạn nắng nóng
(Chinhphu.vn) - Theo báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), thực hiện mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 của TKV, các đơn vị tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu. (05/05/2025)