Sản xuất công nghiệp tháng Mười tiếp tục xu hướng tích cực, ước tính chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10/2024 tăng 4,0% so với tháng trước và tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười tháng năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước[1].
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 10/2024 ước tăng 4,0% so với tháng trước[2] và tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, so với cùng kỳ năm trước, ngành chế biến, chế tạo tăng 8,8%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,0%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,9%; riêng ngành khai khoáng giảm 10,4%;
Tính chung mười tháng năm 2024, IIP ước tính tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 0,5%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,6% (cùng kỳ năm 2023 tăng 0,5%), đóng góp 8,3 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,3%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,5%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 7,2%, làm giảm 1,1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
[1] Tốc độ tăng chỉ số sản xuất công nghiệp mười tháng các năm 2020-2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 2,6%; 3,8%; 8,9%; 0,5%; 8,3%.
[2] Tốc độ tăng/giảm chỉ số IIP tháng 10/2024 so với tháng trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn là: Quảng Ninh tăng 25,2%; Hải Phòng tăng 19,8%; Bắc Giang tăng 7,0%; Vĩnh Phúc tăng 5,8%; Bình Dương tăng 4,9%; Quảng Nam tăng 3,8%; Thái Nguyên tăng 3,5%; Cần Thơ tăng 2,7%; Hải Dương tăng 2,6%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 1,6%; Quảng Ngãi tăng 1,5%; Đà Nẵng và Đồng Nai cùng tăng 1,1%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 5,6%; Bắc Ninh giảm 6,8%.
Chỉ số sản xuất mười tháng năm 2024 của một số ngành công nghiệp trọng điểm cấp 2 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 26,3%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 24,8%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 16,0%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 14,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 14,0%; dệt tăng 12,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 11,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 8,8%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 7,5%. Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 3,0%; sản xuất đồ uống tăng 0,9%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 11,8%; khai thác than cứng và than non giảm 5,9%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị giảm 3,9%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 0,4%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp mười tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 59 địa phương và giảm ở 4 địa phương trên cả nước. Một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện; ngành khai khoáng tăng cao[1], Ở chiều ngược lại, một số địa phương có chỉ số IIP tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và ngành sản xuất, phân phối điện tăng thấp hoặc giảm[2],
[1] Địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mười tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: Lai Châu tăng 43,9%; Phú Thọ tăng 40,7%; Bắc Giang tăng 27,7%; Thanh Hóa tăng 19,5%; Quảng Nam tăng 19,3%; Trà Vinh tăng 6,6%; Điện Biên tăng 5,7%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao: Khánh Hòa tăng 175,2%; Điện Biên tăng 57,1%; Cao Bằng tăng 48,5%; Trà Vinh tăng 48,3%; Lai Châu tăng 42,7%; Sơn La tăng 39,6%; Thanh Hóa tăng 21,9%. Địa phương có chỉ số của ngành khai khoáng tăng cao: Cao Bằng tăng 30,0%; Thanh Hóa tăng 14,0%; Trà Vinh tăng 6,0%.
[2] Địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mười tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng thấp hoặc giảm là: Bạc Liêu tăng 4,9%; Đắk Nông tăng 2,8%; Hà Tĩnh giảm 5,3%; Gia Lai giảm 1,8%; Quảng Ngãi giảm 1,6%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng thấp hoặc giảm: Quảng Trị tăng 2,3%; Bạc Liêu tăng 0,7%; Lạng Sơn giảm 16,7%; Quảng Ngãi giảm 8,6%; Lâm Đồng giảm 5,0%; Gia Lai giảm 1,5%.
[1] Địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mười tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng cao: Lai Châu tăng 43,9%; Phú Thọ tăng 40,7%; Bắc Giang tăng 27,7%; Thanh Hóa tăng 19,5%; Quảng Nam tăng 19,3%; Trà Vinh tăng 6,6%; Điện Biên tăng 5,7%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao: Khánh Hòa tăng 175,2%; Điện Biên tăng 57,1%; Cao Bằng tăng 48,5%; Trà Vinh tăng 48,3%; Lai Châu tăng 42,7%; Sơn La tăng 39,6%; Thanh Hóa tăng 21,9%. Địa phương có chỉ số của ngành khai khoáng tăng cao: Cao Bằng tăng 30,0%; Thanh Hóa tăng 14,0%; Trà Vinh tăng 6,0%.
[1] Tốc độ tăng/giảm chỉ số sản xuất công nghiệp tám tháng các năm 2020-2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 2,2%; 5,5%; 9,2%; -0,2% và 8,6%.
[2] Tốc độ tăng/giảm chỉ số IIP tháng 8/2024 so với tháng trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn là: Hải Phòng tăng 17,2%; Bình Dương tăng 5,1%; Long An tăng 4,9%; Vĩnh Long tăng 2,3%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 2,2%; Bắc Giang tăng 1,7%; Hải Dương tăng 1,4%; Thái Nguyên tăng 0,8%; Vĩnh Phúc tăng 0,1%; Bắc Ninh giảm 9,6%.
[3] Địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tám tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng cao là: Lai Châu tăng 45,4%; Phú Thọ tăng 40,0%; Bắc Giang tăng 28,1%; Bình Phước tăng 17,2%; Thanh Hóa tăng 16,6%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao: Khánh Hòa tăng 204,3%; Trà Vinh tăng 59,6%; Cao Bằng tăng 44,2%; Lai Châu tăng 37,5%; Điện Biên tăng 36,8%; Sơn La tăng 32,7%; Thanh Hóa tăng 29,7%.
[4] Địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tám tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước giảm là: Hà Tĩnh giảm 4,4%; Quảng Ngãi giảm 3,2%; Gia Lai giảm 1,6%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tám tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước giảm: Lạng Sơn giảm 16,4%; Quảng Ngãi giảm 13,1%; Thừa Thiên – Huế giảm 7,8%; Lâm Đồng giảm 5,7%; Gia Lai giảm 1,8%. Địa phương có chỉ số sản xuất ngành khai khoáng giảm: Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 12,9%; Lâm Đồng giảm 11,1%; Quảng Trị giảm 1,8%.
Ngành hoa, cây cảnh có dư địa tăng trưởng lớn
(Chinhphu.vn) - Ngành hoa cây cảnh Việt Nam có cơ hội lớn để phát triển nếu tận dụng tốt tiềm năng và ứng phó tốt với thách thức. Việc kết hợp giữa mô hình sản xuất công nghệ cao, liên kết chuỗi giá trị và chiến lược thị trường thông minh sẽ giúp ngành không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn vươn xa trên bản đồ xuất khẩu thế giới. (12/05/2025)
Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư
(Chinhphu.vn) - Tiếp tục thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh là một trong những nội dung trọng tâm của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp. (09/05/2025)
Đảm bảo đủ than cho sản xuất điện trong giai đoạn nắng nóng
(Chinhphu.vn) - Theo báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), thực hiện mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 của TKV, các đơn vị tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu. (05/05/2025)
Bộ Xây dựng cam kết bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết
(Chinhphu.vn) - Bộ Xây dựng vừa có Quyết định số 383/QĐ-BXD ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 66/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2025. (14/04/2025)
Thời điểm vàng cho Việt Nam, EU hợp tác vượt qua thách thức kinh tế toàn cầu
(Chinhphu.vn) - Đại sứ, Trưởng Phái đoàn EU tại Việt Nam, ông Julien Guerrier gợi ý, EU và Việt Nam nên biến thách thức từ mức thuế quan mới của Mỹ thành cơ hội để tạo thêm lợi ích cho thương mại và đầu tư giữa hai bên. (11/04/2025)
Giá trị gia tăng các sản phẩm nông nghiệp kỳ vọng đạt trên 4%
(Chinhphu.vn) - Ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để đạt mục tiêu tăng trưởng 4% trong năm 2025, đồng thời hướng tới kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản (NLTS) đạt 65 tỷ USD, thậm chí chạm mốc 70 tỷ USD. (02/04/2025)