BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

Kinh tế thế giới sáu tháng đầu năm 2024 tiếp tục gặp nhiều rủi ro, bất ổn, tác động tiêu cực đến tăng trưởng bền vững. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, gia tăng căng thẳng địa chính trị, xung đột quân sự leo thang ở một số quốc gia làm suy yếu hệ thống thương mại đa phương, cản trở đầu tư, gây bất định cho cả sản xuất và tiêu dùng, đồng thời làm tăng biến động tài chính. Bên cạnh đó, tần xuất và mức độ nghiêm trọng của thiên tai đã tăng lên theo thời gian và còn tiếp tục tăng hơn nữa do biến đổi khí hậu đã đe dọa an ninh lương thực, an ninh năng lượng, bất ổn xã hội… Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế thế giới có xu hướng tích cực nhờ nhu cầu hàng hóa tăng trở lại, áp lực lạm phát giảm dần, giá trung bình của hàng hóa giảm nhờ nguồn cung được cải thiện. Các tổ chức quốc tế đưa ra những dự báo lạc quan hơn về kinh tế thế giới năm 2024, điều chỉnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu với mức tăng từ 0,1 đến 0,3 điểm phần trăm so với các dự báo đưa ra trước đó.

Đến thời điểm tháng 6/2024, Liên hợp quốc (UN)[1] dự báo tăng 2,7%, cao hơn 0,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024; Ngân hàng thế giới (WB)[2] nhận định tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,6%, cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với dự báo tại thời điểm tháng 01/2024; Fitch Ratings (FR)[3]dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,6%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 3/2024; Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)[4] dự báo tăng 3,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm; Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)[5] dự báo đạt 3,1%, cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với dự báo tại thời điểm tháng 02/2024; Liên minh châu Âu (EU)[6] nhận định tăng trưởng kinh tế toàn cầu đạt 3,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo tại thời điểm tháng 11/2023.

Trong khu vực, WB dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Phi-li-pin đạt 5,8%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với năm 2023; Việt Nam đạt 5,5%, tăng 0,5 điểm phần trăm; Ma-lai-xi-a đạt 4,3%, tăng 0,6 điểm phần trăm. IMF dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Phi-li-pin đạt 6,2%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm 2023; Việt Nam đạt 5,8%, tăng 0,8 điểm phần trăm; Ma-lai-xi-a đạt 4,4%, tăng 0,7 điểm phần trăm. ADB dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Phi-li-pin đạt 6,0%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với năm 2023; Việt Nam đạt 6,0%, tăng 1,0 điểm phần trăm; Ma-lai-xi-a đạt 4,5%, tăng 0,8 điểm phần trăm. Riêng tăng trưởng của In-đô-nê-xi-a cả ba tổ chức trên đều dự báo đạt 5%, không đổi so với năm 2023.

Trong nước, với quyết tâm tạo động lực đột phá để phát triển kinh tế – xã hội theo mục tiêu đề ra, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện giải pháp đặt ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2024; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024; Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ hằng tháng. Bộ, ngành, địa phương đã theo dõi chặt chẽ những biến động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, đồng thời nỗ lực thực hiện nhiệm vụ, giải pháp, từ đó tạo được sự tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Kinh tế – xã hội quý II và sáu tháng đầu năm 2024 của nước ta tiếp tục xu hướng tích cực, quý sau tốt hơn quý trước; các ngành, lĩnh vực đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo đà tăng trưởng cho các quý tiếp theo. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý II và sáu tháng đầu năm 2024 như sau:

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ

1. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2024 tăng khá, thể hiện rõ xu hướng phục hồi của nền kinh tế với tốc độ tăng ước đạt 6,93% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 7,99% của quý II/2022 trong giai đoạn 2020-2024[7]. Tính chung GDP sáu tháng đầu năm 2024 tăng 6,42%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 6,58% của sáu tháng đầu năm 2022 trong giai đoạn 2020-2024[8].

Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế sáu tháng đầu năm, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,38%, đóng góp 5,96%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,51%, đóng góp 44,28%; khu vực dịch vụ tăng 6,64%, đóng góp 49,76%.

Về cơ cấu nền kinh tế sáu tháng đầu năm 2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,55%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,44%; khu vực dịch vụ chiếm 43,35%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,66% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2023 là 11,64%; 36,46%; 43,10%; 8,80%).

Về sử dụng GDP sáu tháng đầu năm 2024, tiêu dùng cuối cùng tăng 5,78% so với cùng kỳ năm 2023, đóng góp 64,26% vào tốc độ tăng chung của toàn nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 6,72%, đóng góp 35,15%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,89%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,95%, chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 0,59%.

2. Sản xuất nông nghiệp sáu tháng đầu năm 2024 duy trì tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu. Diện tích rừng trồng mới và thu hoạch gỗ tăng cao do hoạt động xuất khẩu gỗ khởi sắc, giá gỗ nguyên liệu tăng. Hoạt động nuôi trồng thủy sản tăng trưởng khá, các địa phương chú trọng đầu tư nuôi thâm canh và bán thâm canh một số thủy sản chủ lực.

a) Nông nghiệp

Diện tích gieo cấy lúa đông xuân cả nước năm 2024 đạt 2.954,0 nghìn ha, tăng 1,2 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2023. Trong đó: các địa phương phía Bắc đạt 1.059,8 nghìn ha, giảm 8,2 nghìn ha[9]; các địa phương phía Nam đạt 1.894,2 nghìn ha, tăng 9,4 nghìn ha. Năng suất lúa đông xuân ước đạt 68,8 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng lúa ước đạt 20,32 triệu tấn, tăng 132,5 nghìn tấn.

Tính đến trung tuần tháng 6/2024, các địa phương trên cả nước đã xuống giống được 1.825,4 nghìn ha lúa hè thu, bằng 98,3% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.419,3 nghìn ha, bằng 97,8%.

Đến giữa tháng Sáu, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 586,3 nghìn ha ngô, bằng 94,5% cùng kỳ năm trước; 54,9 nghìn ha khoai lang, bằng 100,2%; 13,5 nghìn ha đậu tương, bằng 98,5%; 113,6 nghìn ha lạc, bằng 94,7%; 724,1 nghìn ha rau, đậu, bằng 97,6%.

Sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm sáu tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm trước: Chè búp đạt 522,9 nghìn tấn, tăng 2,4%; cao su đạt 410,7 nghìn tấn, tăng 2,0%; hồ tiêu đạt 238,2 nghìn tấn, tăng 2,3%; điều đạt 330,3 nghìn tấn, giảm 5,2%. Sản lượng một số cây ăn quả tăng so với cùng kỳ năm trước: xoài đạt 629,4 nghìn tấn, tăng 2,3%; cam đạt 519,4 nghìn tấn, tăng 2,4%; sầu riêng đạt 487,7 nghìn tấn, tăng 20,3%.

Chăn nuôi trâu, bò trong sáu tháng đầu năm 2024 có xu hướng giảm[10]. Chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát[11]. Đàn lợn có xu hướng tăng mạnh trở lại do chăn nuôi nông hộ chuyển mạnh sang bán công nghiệp, liên kết với doanh nghiệp; chăn nuôi trang trại theo chuỗi kết hợp an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và ứng dụng công nghệ tiên tiến, giá thịt lợn hơi ở mức cao[12].

b) Lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng mới tập trung sáu tháng đầu năm 2024 ước đạt 128,5 nghìn ha, tăng 3,5% % so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 44,6 triệu cây, tăng 2,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt 9.928,4 nghìn m3, tăng 6,3%.

Diện tích rừng bị thiệt hại của cả nước sáu tháng đầu năm[13] là 1.165,3 ha rừng bị thiệt hại, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích rừng bị chặt, phá là 481,4 ha, giảm 22,9%; diện tích rừng bị cháy là 683,9 ha, tăng 25,9%.

 c) Thủy sản

Tổng sản lượng thủy sản sáu tháng đầu năm ước đạt 4.384,7 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước (quý II/2024 đạt 2.439,5 nghìn tấn, tăng 2,9%), bao gồm: Cá đạt 3.172,3 nghìn tấn, tăng 2,6%; tôm đạt 559,7 nghìn tấn, tăng 4,0%; thủy sản khác đạt 652,7 nghìn tấn, tăng 2,1%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng sáu tháng đầu năm ước đạt 2.431,4 nghìn tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng cá tra đạt 831,8 nghìn tấn, tăng 5,4%; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 332,7 nghìn tấn, tăng 5,6%; sản lượng tôm sú đạt 122,1 nghìn tấn, tăng 2,3%.

Sản lượng thủy sản khai thác sáu tháng đầu năm ước đạt 1.953,3 nghìn tấn, tăng 1,0% so với cùng kỳ năm trước (quý II/2024 đạt 1.075,2 nghìn tấn, tăng 1,5%), bao gồm: cá đạt 1.515,6 nghìn tấn, tăng 1,1%; tôm đạt 72,1 nghìn tấn, tăng 0,9 %; thủy sản khác đạt  365,6 nghìn tấn, tăng 0,7%.

3. Sản xuất công nghiệp duy trì xu hướng tăng trưởng tích cực, đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo.. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 7,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,67%.

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp sáu tháng đầu năm 2024 ước tính tăng 7,54% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 6,47%; quý II tăng 8,55%). Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,67% (quý I tăng 7,21%; quý II tăng 10,04%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 13,26%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,13%. Riêng ngành khai khoáng giảm 7,22%, làm giảm 0,24 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sáu tháng đầu năm 2024 tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ năm trước giảm 2,2%). Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/6/2024 tăng 7,6% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 9,6% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 19,9%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân sáu tháng đầu năm 2024 là 76,9% (bình quân sáu tháng đầu năm 2023 là 83,1%).

4. Sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng khởi sắc hơn trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng thế giới có những tín hiệu phục hồi tích cực. Cùng với đó, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp ngày càng phát huy hiệu quả, số doanh nghiệp gia nhập thị trường tiếp tục cao hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường

 a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[14]

Trong tháng Sáu, cả nước có 15,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 143 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký 85,6 nghìn lao động, tăng 19,1% về số doanh nghiệp, tăng 53,4% về vốn đăng ký và tăng 17,9% về số lao động so với tháng 5/2024. So với cùng kỳ năm trước, tăng 13,1% về số doanh nghiệp, tăng 3,1% về số vốn đăng ký và giảm 17,6% về số lao động. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, cả nước có gần 80,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 744,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 512 nghìn lao động, tăng 6,1% về số doanh nghiệp, tăng 5,2% về vốn đăng ký và tăng 0,4% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, cả nước có hơn 39,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2023), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong sáu tháng đầu năm 2024 lên gần 119,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2023. Bình quân một tháng có 19,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Cũng trong sáu tháng đầu năm nay, có 71,4 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm trước; gần 28,8 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 7,3%; 10,2 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 15,4%. Bình quân một tháng có gần 18,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2024 cho thấy: Có 37,4% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý I/2024; 41,6% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 21% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn[15]. Dự kiến quý III/2024, có 40,7% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý II/2024; 42,2% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 17,1% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.

5. Hoạt động thương mại, vận tải, du lịch sáu tháng đầu năm nay duy trì tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước; trong đó du lịch phục hồi mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế.

Tháng Sáu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước tính tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước; vận tải hành khách giảm 4,6% về vận chuyển[16] và tăng 7,0% về luân chuyển; vận tải hàng hóa tăng 15,6% về vận chuyển và tăng 13,3% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước; khách quốc tế đến Việt Nam đạt 1,2 triệu lượt người[17], tăng 28,1% so với cùng kỳ năm trước; số lượt người Việt Nam xuất cảnh đạt 470,6 nghìn lượt người, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 3.098,7 nghìn tỷ đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 11,3%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,7% (cùng kỳ năm 2023 tăng 8,8%). Trong đó, quý II/2024 ước đạt 1.558,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2% so với quý trước và tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước.


Vận tải hành khách sáu tháng đầu năm 2024, ước đạt 2.312,1 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 17,9%) và luân chuyển đạt 132,5 tỷ lượt khách.km, tăng 11,0% (cùng kỳ năm trước tăng 33,5%); trong đó, quý II ước đạt 1.112,6 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 0,1% và luân chuyển đạt 64,7 tỷ lượt khách.km, tăng 9,3%. Vận tải hàng hóa ước đạt 1.263,0 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 16,3%) và luân chuyển 254,8 tỷ tấn.km, tăng 10,3% (cùng kỳ năm trước tăng 14,1%); trong đó, quý II/2024 ước đạt 642,9 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,0% và luân chuyển 127,5 tỷ tấn.km, tăng 11,0%.

Khách quốc tế đến Việt Nam sáu tháng đầu năm nay ước đạt hơn 8,8 triệu lượt người, tăng 58,4% so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19 ; trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 7,4 triệu lượt người, chiếm 83,8% lượng khách quốc tế đến Việt Nam và tăng 51,6% so với cùng kỳ năm trước; bằng đường bộ đạt gần 1,3 triệu lượt người, chiếm 14,3% và tăng 99,0%; bằng đường biển đạt 164,9 nghìn lượt người, chiếm 1,9% và tăng 199,5%.

Số lượt người Việt Nam xuất cảnh sáu tháng đầu năm 2024 đạt 2,6 triệu lượt người, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước.

6. Điều kiện tài chính toàn cầu đang dần nới lỏng, một số Ngân hàng Trung ương dự kiến giảm dần lãi suất. Trong nước mặt bằng lãi suất huy động và lãi suất cho vay duy trì xu hướng giảm, tỷ giá được điều hành chủ động, linh hoạt, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; hoạt động kinh doanh bảo hiểm ổn định, thị trường chứng khoán duy trì xu hướng tăng trưởng theo đà phục hồi của nền kinh tế.

Tính đến thời điểm 24/6/2024, huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 1,50% so với cuối năm 2023 (cùng thời điểm năm trước tăng 3,68%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 4,45% (cùng thời điểm năm trước tăng 3,83%).

Doanh thu phí bảo hiểm sáu tháng đầu năm ước đạt 109,1 nghìn tỷ đồng, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Doanh thu phí lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 38,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2%; lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ ước đạt 70,2 nghìn tỷ đồng, giảm 10,5%.

Về thị trường chứng khoán, hoạt động giao dịch trên thị trường diễn ra sôi động trong sáu tháng đầu năm 2024, chỉ số VN-Index duy trì xu thế tăng trưởng nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh được phục hồi. Tính đến ngày 26/06/2024, chỉ số VNIndex đạt 1.260,99 điểm, tăng 11,6% so với cuối năm 2023; mức vốn hóa thị trường cổ phiếu (đến ngày 17/06/2024) đạt 5.533,6 nghìn tỷ đồng, giảm 6,8% so với cuối năm 2023; giá trị giao dịch bình quân tháng 6/2024 đạt 26.970 tỷ đồng/phiên, tăng 7,6% so với bình quân tháng trước. Tính từ đầu năm đến nay, giá trị giao dịch bình quân đạt 24.309 tỷ đồng/phiên, tăng 38,3% so với bình quân năm 2023.

7. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong sáu tháng đầu năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 1451,3 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 4,8% cùng kỳ sáu tháng 2023, phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh trong nước trong nửa đầu năm 2024 phục hồi rõ nét ở nhiều ngành, lĩnh vực, tạo động lực cho thu hút và và thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam sáu tháng đầu năm 2024 ước đạt 10,84 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước, đạt mức cao nhất sáu tháng đầu năm của các năm từ 2020 đến nay.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành sáu tháng đầu năm ước đạt 1.451,3 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước, (quý II/2024 ước đạt 834,3 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước), bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 392,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 27% tổng vốn và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 799,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,1% và tăng 6,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 259,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,9% và tăng 10,3%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam[18] tính đến ngày 20/6/2024 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 15,19 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: 1.538 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 9,54 tỷ USD, tăng 18,9% về số dự án và tăng 46,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 592 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 3,95 tỷ USD, tăng 35% so với cùng kỳ năm trước; 1.420 lượt với tổng giá trị góp vốn 1,7 tỷ USD, giảm 57,7% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, có 501 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 696,7 triệu USD và 919 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 1 tỷ USD).

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam sáu tháng đầu năm 2024 ước đạt 10,84 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước.

8. Thu ngân sách Nhà nước[19] sáu tháng đầu năm 2024 tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước. Chi ngân sách Nhà nước giảm 0,1%, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 6/2024 ước đạt 105,1 nghìn tỷ đồng, lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước sáu tháng đầu năm 2024 đạt 1.020,6 nghìn tỷ đồng, bằng 60% dự toán năm và tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa đạt gần 857 nghìn tỷ đồng, bằng 59,3% dự toán năm và tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 6/2024 ước đạt 151,6 nghìn tỷ đồng, lũy kế sáu tháng đầu năm 2024 đạt 803,6 nghìn tỷ đồng, bằng 37,9% dự toán năm và giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước

9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ[20] sáu tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng khá, đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng hóa thế giới tăng trở lại sau một thời gian suy giảm.

Trong tháng Sáu, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 63,24 tỷ USD, giảm 2,7% so với tháng trước và tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 368,53 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 14,5%; nhập khẩu tăng 17%[21]. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 11,63 tỷ USD.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 6/2024 ước đạt 33,09 tỷ USD, tăng 2,6% so với tháng trước. Quý II/2024, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 97,2 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,6% so với quý I/2024. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 190,08 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 6/2024 ước đạt 30,15 tỷ USD, giảm 7,9% so với tháng trước. Quý II/2024, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 93,4 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước và tăng 9,7% so với quý I/2024. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 178,45 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước.

Cán cân thương mại hàng hóa tháng Sáu ước tính xuất siêu 2,94 tỷ USD. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 11,63 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 13,44 tỷ USD).

Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Trong sáu tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 11,25 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2023 (quý II ước đạt 5,5 tỷ USD, tăng 17,1%), trong đó dịch vụ du lịch đạt 6 tỷ USD (chiếm 53,1% tổng kim ngạch), tăng 40,1% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ vận tải đạt 3 tỷ USD (chiếm 26,8%), tăng 2,0%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ sáu tháng đầu năm 2024 ước đạt 16,11 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước (quý II ước đạt 8,3 tỷ USD, tăng 20,1%), trong đó dịch vụ vận tải đạt 6,9 tỷ USD (chiếm 42,7% tổng kim ngạch), tăng 18,6%; dịch vụ du lịch đạt 4,9 tỷ USD (chiếm 30,4%), tăng 52,9%. Nhập siêu dịch vụ sáu tháng đầu năm 2024 là 4,86 tỷ USD.

10. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2024 tăng 0,17% so với tháng trước. So với tháng 12/2023 CPI tháng Sáu tăng 1,40% và so với cùng kỳ năm trước tăng 4,34%. Nguyên nhân chính là do giá thịt lợn tăng do dịch tả lợn châu Phi tại một số địa phương, giá dịch vụ y tế của một số tỉnh/thành phố được điều chỉnh theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT của Bộ Y tế.

a) Chỉ số giá tiêu dùng

Trong mức tăng 0,15% của CPI tháng 6/2024 so với tháng trước, có 08 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 03 nhóm hàng có chỉ số giá giảm. CPI bình quân quý II/2024 tăng 4,39% so với cùng kỳ năm trước; bình quân sáu tháng đầu năm 2024 tăng 4,08% so với cùng kỳ năm trước.

Lạm phát cơ bản[22] tháng 6/2024 tăng 0,18% so với tháng trước, tăng 2,61% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân sáu tháng đầu năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,75% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn mức CPI bình quân chung[23] (tăng 4,08%).

b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng 6/2024 giảm 2,64% so với tháng trước; tăng 18,26% so với tháng 12/2023; tăng 29,51% so với cùng kỳ năm trước; bình quân sáu tháng đầu năm 2024 tăng 24,02%.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2024 giảm 0,04% so với tháng trước; tăng 4,17% so với tháng 12/2023; tăng 7,66% so với cùng kỳ năm trước; bình quân sáu tháng đầu năm 2024 tăng 5,64%.

II. TÌNH HÌNH XÃ HỘI

1. Lực lượng lao động và số người có việc làm trong quý II/2024 tăng so với quý trước và tăng so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân tháng của người lao động giảm so với quý trước[24] và tăng so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm đều tăng so với quý trước.

Quý II/2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước tính là 52,5 triệu người, tăng 148,6 nghìn người so với quý trước và tăng 217,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý II/2024 là 68,6%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 28,1%, tăng 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 52,5 triệu người, tăng 196,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,5%, giảm 0,4 điểm phần trăm; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 28%, tăng 1,4 điểm phần trăm.

Lao động có việc làm quý II/2024 ước tính là 51,4 triệu người, tăng 126,6 nghìn người so với quý trước và tăng 217,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, lao động có việc làm là 51,4 triệu người, tăng 195,7 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

Thu nhập bình quân của người lao động quý II/2024 là 7,5 triệu đồng/tháng, giảm 137 nghìn đồng so với quý I/2024 và tăng 490 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, thu nhập bình quân của người lao động là 7,5 triệu đồng/tháng, tăng 7,4%, tương ứng tăng 519 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý II/2024 là 2,29%, tăng 0,05 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,01 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung sáu tháng đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động sáu tháng đầu năm 2024 là 2,27%, tương đương cùng kỳ năm trước.

2. Theo khảo sát tình hình đời sống của hộ dân cư, đời sống của hộ dân cư trong sáu tháng đầu năm 2024 được cải thiện hơn so với cùng kỳ năm 2023. Tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập trong sáu tháng đầu năm nay không thay đổi và tăng lên so với tháng cùng kỳ năm 2023 là 95,6%, tăng 0,8 điểm phần trăm so với kỳ báo cáo tháng 5/2024 và tăng 1,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Công tác an sinh xã hội tiếp tục được các cấp từ trung ương đến địa phương quan tâm thực hiện.

Tính đến ngày 19/6/2024, lãnh đạo trung ương và địa phương, các ban, ngành, đoàn thể, các nhà hảo tâm đã tổ chức thăm hỏi, động viên và tặng quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là 11,7 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là hơn 3 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là 16,5 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ đột xuất, bất thường phát sinh tại địa phương gần 70,1 tỷ đồng. Ngoài ra, bảo hiểm xã hội đã cấp phát hơn 26,2 triệu thẻ BHYT/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng. Tính từ đầu năm đến ngày 21/6/2024 tổng số gạo Chính phủ đã hỗ trợ là 21,3 nghìn tấn gạo cho người dân; trong đó: Chính phủ hỗ trợ 10,4 nghìn tấn gạo cứu đói nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn cho 693,4 nghìn nhân khẩu; hỗ trợ hơn 5,9 nghìn tấn gạo cứu đói giáp hạt năm 2024 cho 396,3 nghìn nhân khẩu. Các địa phương cũng xây dựng kế hoạch, chủ động bố trí ngân sách địa phương và nguồn xã hội hóa để hỗ trợ gần 5 nghìn tấn gạo cho các hộ nghèo, cận nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn.

Tính đến hết tháng 5/2024, cả nước có 6.370/8.167 xã (78%) đạt chuẩn nông thôn mới; trong đó 1.874 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 347 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; bình quân cả nước đạt 17,1 tiêu chí/xã; có 284 đơn vị cấp huyện thuộc 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (chiếm 44% số huyện cả nước) hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 03 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới[25].

3. Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông 2024 được tổ chức vào ngày 27-28/6/2024. Đây là kỳ thi cuối cùng theo Chương trình giáo dục phổ thông 2006. Kết quả của kỳ thi phục vụ mục tiêu xét tốt nghiệp THPT, làm cơ sở để xét tuyển đại học, cao đẳng và đánh giá chất lượng giáo dục. Học sinh lớp 12 thực hiện đăng ký dự thi trực tuyến từ ngày 02/5 đến 17h00 ngày 10/5/2024, cả nước có 1.071.395 thí sinh đăng ký dự thi, tăng khoảng 45 nghìn thí sinh so với năm trước

Tính đến 20/6/2024, cả nước có 15.269 trường mầm non, 25.901 trường phổ thông (gồm: 12.170 trường tiểu học, 8.580 trường trung học cơ sở và 2.371 trường trung học phổ thông và 2.780 trường phổ thông có nhiều cấp học). Số giáo viên mầm non là 365,2 nghìn người, số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy là 829,9  nghìn người, bao gồm: 390,6 nghìn giáo viên tiểu học, 292,3 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 147,0 nghìn giáo viên trung học phổ thông. Trong năm học 2023-2024, cả nước có 4,85 triệu trẻ em đi học mầm non; 18,4 triệu học sinh phổ thông, bao gồm: 8,9 triệu học sinh tiểu học; 6,5 triệu học sinh trung học cơ sở và gần 3 triệu học sinh trung học phổ thông.

Về giáo dục nghề nghiệp (GDNN), theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, số người được tuyển sinh năm 2024 theo kế hoạch là 2.430 nghìn người[26] (trong đó: trình độ cao đẳng, trung cấp là 530 nghìn người; trình độ sơ cấp và đào tạo nghề dưới 3 tháng là 1.900 nghìn người); số người tốt nghiệp là 2.146 nghìn người (trong đó: trình độ cao đẳng, trung cấp là 346 nghìn người; trình độ sơ cấp và đào tạo nghề dưới 3 tháng là 1.800 nghìn người).

4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm[27]

Theo báo cáo của Bộ Y tế, Trong tháng (19/5-18/6/2024), cả nước có 4.916 người mắc bệnh sốt xuất huyết; 8.507 người mắc bệnh tay chân miệng; 138 người sốt phát ban nghi sởi; 10 người tử vong do bệnh dại; 49 người mắc bệnh viêm não vi rút; 02 người mắc viêm màng não do não mô cầu. Tính chung sáu tháng đầu năm 2024, cả nước có 24,8 nghìn người mắc bệnh sốt xuất huyết (03 ca tử vong); 28,6 nghìn người mắc bệnh tay chân miệng; 450 người sốt phát ban nghi sởi; 44 người tử vong do bệnh dại; 208 người mắc bệnh viêm não vi rút (06 ca tử vong); 11 người mắc viêm màng não do não mô cầu; 01 người mắc cúm A bị tử vong.

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/6/2024 là 238,2 nghìn người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 114,9 nghìn người.

Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Sáu xảy ra 20 vụ làm 372 người bị ngộ độc (03 người tử vong). Tính chung sáu tháng đầu năm nay (từ ngày 19/12/2023 đến 18/6/2024) cả nước xảy ra 55 vụ ngộ độc thực phẩm làm 2.397 người bị ngộ độc (06 người tử vong).

5. Công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa luôn được quan tâm; thể thao phong trào được duy trì, thể thao thành tích cao có những thành tích đáng ghi nhận.

Trong sáu tháng đầu năm 2024, các hoạt động văn hóa diễn ra sôi nổi trên cả nước, đặc biệt là sau dịp Tết Nguyên đán 2024. Một số lễ hội nổi bật như: Lễ hội chùa Hương, lễ hội Khai ấn đền Trần, lễ hội Đền Hùng, lễ hội chùa Bái Đính, hội Lim, hội chùa Thầy… Bên cạnh đó là các hoạt động kỷ niệm 49 năm ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2024) trong tháng Tư và chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ trong tháng Năm.

Về thể thao thành tích cao, đội tuyển bóng đá nam Việt Nam tham dự vòng loại thứ 2 World Cup 2026 và đứng thứ 3, chính thức dừng bước ở vòng loại World Cup 2026 với kết quả 6 điểm. Tính đến thời điểm hiện tại, thể thao Việt Nam đã giành được 12 tấm vé chính thức đến Olympic Paris 2024 ở các nội dung: Xe đạp, bơi lội, bắn súng, cử tạ, canoeing, rowing, cầu lông, boxing và bắn cung.

6. Số vụ tai nạn giao thông[28] tháng Sáu tăng 0,8% so với tháng trước, số người chết tăng 1,4%. Tính chung sáu tháng đầu năm nay, số vụ tai nạn giao thông giảm 15,6%, số người chết giảm 10,6% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng Sáu (từ 15/5-14/6/2024), trên địa bàn cả nước xảy ra 1.894 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 1.369 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 525 vụ va chạm giao thông, làm 849 người chết, 816 người bị thương và 557 người bị thương nhẹ. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 0,8% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 1,2% và số vụ va chạm giao thông giảm 0,2%); số người chết tăng 1,4%; số người bị thương giảm 2,9% và số người bị thương nhẹ giảm 7,6%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Sáu tăng 8% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 5% và số vụ va chạm giao thông tăng 16,7%); số người chết giảm 9,8%; số người bị thương tăng 16,9% và số người bị thương nhẹ tăng 15,8%.

Tính chung sáu tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 12.353 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 8.728 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 3.625 vụ va chạm giao thông, làm 5.343 người chết, 5.557 người bị thương và 3.995 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong sáu tháng đầu năm nay tăng 15,6% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 7,5%; số vụ va chạm giao thông tăng 41,1%); số người chết giảm 10,6%; số người bị thương tăng 23,3% và số người bị thương nhẹ tăng 52,6%. Bình quân 1 ngày trong sáu tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 68 vụ tai nạn giao thông, gồm 48 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 20 vụ va chạm giao thông, làm 29 người chết, 30 người bị thương và 22 người bị thương nhẹ.

7. Thiên tai, ô nhiễm môi trường và cháy, nổ ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người dân ở một số địa phương

Thiệt hại do thiên tai[29]: trong sáu tháng đầu năm nay, thiên tailàm 68 người chết và mất tích và 56 người bị thương; 28,1 nghìn ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; 22,9 nghìn con gia súc bị chết; 36,8 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 1.723,3 tỷ đồng, gấp gần 2,5 lần cùng kỳ năm 2023. Tính riêng tháng Sáu chủ yếu do ảnh hưởng của lốc, sét, mưa đá làm 29 người chết và 6 người bị thương; 3,1 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng; 6,1 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng là 344,6 tỷ đồng, tăng 36,6% so với cùng kỳ năm trước.

Bảo vệ môi trường[30]: Trong sáu tháng đầu năm nay, các cơ quan chức năng đã phát hiện 12.650 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 11.418 vụ với tổng số tiền phạt là 156,5 tỷ đồng, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước.

Cháy nổ[31]: Trong tháng, cả nước xảy ra 290 vụ cháy, nổ, làm 17 người chết và 15 người bị thương, thiệt hại ước tính 11 tỷ đồng, giảm 58,5% so với tháng trước và giảm 62,8% cùng kỳ năm trước. Tính chung sáu tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 2.231vụ cháy, nổ, làm 55 người chết và 52 người bị thương, thiệt hại ước tính 127,9 tỷ đồng, giảm 36,5% so với cùng kỳ năm trước./.

[1] UN (Tháng 05/2024), “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới – cập nhật giữa năm 2024”, https://desapublications.un.org/publications/world-economic-situation-and-prospects-mid-2024?_ga=2.5323955.1851850669.1718828290-586668022.1718828290, truy cập ngày 19/6/2024.

[2] WB (Tháng 6/2024), “Triển vọng kinh tế toàn cầu”, https://www.worldbank.org/en/publication/global-economic-prospects, truy cập ngày 19/6/2024.

[3] FR (Tháng 6/2024), “Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2024”, https://www.fitchratings.com/research/sovereigns/global-economic-outlook-june-2024-17-06-2024, truy cập ngày 24/6/2024.

[4] IMF (Tháng 04/2024), “Triển vọng kinh tế thế giới – Vững chắc nhưng chậm: Khả năng phục hồi khác nhau giữa các quốc gia”, https://www.imf.org/en/Publications/WEO/Issues/2024/04/16/world-economic-outlook-april-2024, truy cập ngày 18/6/2024.

[5] OECD (Tháng 06/2024), “Báo cáo Triển vọng kinh tế OECD: Sự phục hồi đang diễn ra”, https://www.oecd.org/economic-outlook/may-2024/, truy cập ngày 18/6/2024.

[6] EU (Tháng 02/2023), Dự báo kinh tế châu Âu mùa đông 2024: Trì hoãn phục hồi tăng trưởng trong bối cảnh nới lỏng lạm phát”, https://economy-finance.ec.europa.eu/document/download/c63e0da2-c6d6-4d13-8dcb-646b0d1927a4_en?filename=ip286_en.pdf,  truy cập ngày 18/6/2024.

[7] Tốc độ tăng GDP quý II so với cùng kỳ năm trước các năm 2020-2024 lần lượt là: 0,34%; 6,55%; 7,99%; 4,25%; 6,93%.

 [8] Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm 2020-2024 lần lượt là: 1,74%; 5,71%; 6,58%; 3,84%; 6,42%.

[9] Nguyên nhân do một phần diện tích chuyển sang đất phi nông nghiệp để xây dựng, mở rộng, phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng hạ tầng giao thông trên địa bàn nông thôn; một phần diện tích lúa kém hiệu quả tiếp tục chuyển đổi sang trồng cây khác hoặc nuôi thủy sản cho hiệu quả kinh tế cao hơn.

[10] Do chăn nuôi trâu, bò lấy thịt có hiệu quả kinh tế không cao, chu kỳ sản xuất dài nên người dân chuyển sang các vật nuôi khác. Tuy nhiên, đàn bò sữa vẫn phát triển ổn định.

[11] Tính đến ngày 23/6/2024, cả nước không có dịch cúm gia cầm và dịch tai xanh; dịch lở mồm long móng còn ở Yên Bái và Gia Lai; dịch viêm da nổi cục còn ở Bắc Kạn và Đắk Nông; dịch tả lợn châu Phi còn ở 23 địa phương chưa qua 21 ngày.

[12] Tính đến ngày 25/6/2024, giá thịt lợn hơi cả nước dao động trong khoảng 63.000 – 68.000 đồng/kg, thay đổi tùy từng địa phương.

[13] Số liệu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tính đến 25/6/2024.

[14] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 25/6/2024.

[15] Chỉ số tương ứng của quý I/2024: Có 22,1% số doanh nghiệp đánh giá tốt hơn so với quý IV/2023; 42,8% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 35,1% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.

[16] Do vận chuyển hành khách bằng đường bộ giảm 5,6% và hàng không giảm 21,5% so với cùng kỳ năm trước.

[17] Kỳ báo cáo từ ngày 21/5/2024-20/6/2024.

[18] Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 22/6/2024.

[19] Theo báo cáo tình hình thực hiện Ngân sách Nhà nước sáu tháng đầu năm và các giải pháp trong sáu tháng cuối năm 2024 ngày 27/6/2024 của Bộ Tài chính.

[20] Kim ngạch xuất khẩu tính theo giá F.O.B và kim ngạch nhập khẩu tính theo giá C.I.F (bao gồm chi phí vận tải, bảo hiểm của hàng nhập khẩu). Khi tính cán cân thương mại của nền kinh tế thì kim ngạch xuất, nhập khẩu được tính theo giá F.O.B.

[21] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sáu tháng đầu năm 2023 đạt 318,6 tỷ USD, giảm 14,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 166 tỷ USD, giảm 11,3%; nhập khẩu đạt 152,6 tỷ USD, giảm 18,0%.

[22] CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và giáo dục.

[23] Nguyên nhân chủ yếu do giá lương thực, điện, dịch vụ giáo dục và dịch vụ y tế là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.

[24] Thu nhập của lao động quý II thường giảm so với quý I do các khoản thu nhập phụ trội bổ sung từ tiền làm thêm cuối năm và tiền thưởng dịp Tết Nguyên đán thường được chi trả chủ yếu trong quý I.

[25] Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Ninh Bình, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, Bạc Liêu, Trà Vinh, Hà Tĩnh, Tiền Giang, Đồng Tháp.

[26] http://gdnn.gov.vn/AIAdmin/News/View/tabid/66/newsid/40128/seo/Nam-2024-Tong-cuc-GDNN-se-ra-soat-danh-gia-Luat-Giao-duc-nghe-nghiep-hien-hanh/Default.aspx

[27] Theo báo cáo của Bộ Y tế

[28] Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải) ngày 23/6/2024.

[29] Tổng hợp Báo cáo từ 63 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kỳ báo cáo từ ngày 19/5-18/6/2024.

[30] Cục Thống kê 63 tỉnh, TP  tổng hợp báo cáo từ Sở Tài nguyên và Môi trường, Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

[31] Theo báo cáo nhanh từ Bộ Công an ngày 23/6/2024.


Việt Nam luôn đồng hành, sát cánh, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ

Chính phủ Việt Nam cam kết sẽ luôn đồng hành, sát cánh cùng cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài; tiếp tục tạo mọi điều kiện thuận lợi và tháo gỡ kịp thời những vướng mắc cho hoạt động đầu tư, kinh doanh, giúp doanh nghiệp có thể tăng tốc, bứt phá và phát triển mạnh mẽ, bền vững hơn nữa tại Việt Nam. (18/03/2025)

QUY ĐỊNH MỚI về chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy

Chính phủ ban hành Nghị định số 67/2025/NĐ-CP ngày 15/3/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 178/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. (17/03/2025)

Một 'điểm sáng' hợp tác nông nghiệp giữa các tập đoàn hàng đầu Việt Nam - Nhật Bản

Với thế mạnh đến từ Vinamilk, Vilico và Sojitz, Tổ hợp trang trại và nhà máy chế biến thịt bò Tam Đảo không chỉ đánh dấu sự hợp tác giữa các tập đoàn hàng đầu của Việt Nam - Nhật Bản, mà còn nâng tầm ngành chăn nuôi, chế biến công nghệ cao của Việt Nam... (16/03/2025)

Bộ VHTTDL công bố Chương trình kích cầu du lịch năm 2025

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 15/01/2025 của Chính phủ và Chương trình kích cầu du lịch năm 2025 với chủ đề "Việt Nam - đi để yêu". (28/02/2025)

Giá xăng dầu đồng loạt giảm

Chiều 27/2, liên Bộ Công Thương-Tài chính thông báo về việc điều chỉnh giá bán lẻ các mặt hàng xăng, dầu, áp dụng từ 15h cùng ngày. (27/02/2025)

Hướng đến giao dịch bất động sản qua hình thức điện tử

Đề án thí điểm mô hình Trung tâm giao dịch bất động sản hướng đến giao dịch qua hình thức điện tử nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và tăng cường tính công khai, minh bạch trên thị trường. (26/02/2025)

Xem thêm