Trong 3 năm qua, nền kinh tế của Việt Nam nói chung, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng gặp nhiều khó khăn, thách thức, trong đó có những vấn đề chưa có tiền lệ, ảnh hưởng mạnh tới số lượng doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp ngừng hoạt động, nổi bật là:

Tình hình phát triển doanh nghiệp trong nước trong thời gian qua

Năm 2021, sự bùng phát mạnh của làn sóng Covid-19 lần thứ tư cùng với các đợt phong tỏa nghiêm ngặt, giãn cách kéo dài (đặc biệt là quý III/2021) đã tác động tiêu cực đến cộng đồng doanh nghiệp. Việc ban hành các chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời, công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện khẩn trương, quyết liệt đã góp phần quan trọng trong khôi phục sản xuất và thúc đẩy thị trường, từng bước tạo niềm tin cho các doanh nghiệp. Số doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2021 đạt 116,8 nghìn doanh nghiệp, giảm 13,4% so với năm trước; vốn đăng ký đạt 1.611,1 nghìn tỷ đồng, giảm 27,9%. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2021 đạt 13,8 tỷ đồng, giảm 16,8% so với năm trước. Nếu tính cả 2.524,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 43,5 nghìn doanh nghiệp tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 2021 là 4.136 nghìn tỷ đồng, giảm 25,8% so với năm trước. Bên cạnh đó, còn có 43,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (giảm 2,2% so với năm 2020), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2021 lên gần 160 nghìn doanh nghiệp, giảm 10,7% so với năm trước. Bình quân một tháng có 13,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Năm 2021, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn gần 55 nghìn doanh nghiệp, tăng 18% so với năm trước; 48,1 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 27,8%; 16,7 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 4,1%, trong đó có 14,8 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 4%; 211 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, giảm 20,7%. Bình quân một tháng có gần 10 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Số doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2022 đạt 148,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 27,1% so với năm trước; vốn đăng ký đạt 1.590,9 nghìn tỷ đồng, giảm 1,3%. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2022 đạt 10,7 tỷ đồng, giảm 22,3% so với năm trước. Nếu tính cả 3.172,7 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 50,4 nghìn doanh nghiệp tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 2022 là 4.763,5 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% so với năm trước. Bên cạnh đó, còn có 59,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 38,8% so với năm 2021), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2022 lên gần 208,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 30,3% so với năm trước. Bình quân một tháng có 17,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Năm 2022, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 73,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 34,3% so với năm trước; gần 50,8 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 5,5%; 18,6 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 11,2%. Bình quân một tháng có 11,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Trong 9 tháng năm 2023, dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng vẫn có trên 165 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, trong đó đa số là doanh nghiệp thành lập mới (trên 116 nghìn doanh nghiệp). Đặc biệt, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động (165,2 nghìn doanh nghiệp) vẫn lớn hơn số doanh nghiệp tạm ngừng và rút lui khỏi thị trường (135,1 nghìn doanh nghiệp), cho thấy lực lượng doanh nghiệp vẫn tiếp tục tăng trưởng, là một kết quả đáng ghi nhận khi đặt trong bối cảnh quốc tế, trong nước có rất nhiều khó khăn, biến động.

Tình hình đăng ký doanh nghiệp 9 tháng năm 2023

Thời cơ, thuận lợi

Từ đầu năm 2020, dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, tác động toàn diện đến nền kinh tế nước ta, ảnh hưởng nặng nề đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và khả năng thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội hằng năm và 5 năm 2021-2025.

Ngày 30/1/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Thời gian hỗ trợ của Nghị quyết chủ yếu thực hiện trong 2 năm 2022-2023; một số chính sách có thể kéo dài, bổ sung nguồn lực thực hiện tùy theo diễn biến dịch bệnh.

Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội nhằm góp phần đưa nền kinh tế sớm vượt qua khó khăn, không lỡ nhịp với tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu, đồng thời tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế- xã hội cho cả giai đoạn 2021-2025 và các năm tiếp theo, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động, sức cạnh tranh, năng lực nội tại và tính tự chủ trong trung và dài hạn. Trong đó, đối tượng doanh nghiệp được tạo nhiều điều kiện hỗ trợ thuận lợi, giảm bớt khó khăn để sớm quay trở lại đà tăng trưởng.

Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia; hơn 30 đối tác có quan hệ từ Đối tác toàn diện trở lên; đã ký kết 16 FTA; trong đó có nhiều FTA thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP); đặc biệt chúng ta vừa nâng cấp quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ, trong đó quan hệ kinh tế – thương mại là trọng tâm phát triển khiến thị trường quốc tế ngày càng rộng mở, tạo điều kiện không nhỏ cho doanh nghiệp phát triển.

Bên cạnh đó, dân số Việt Nam hiện khoảng 100 triệu người, cùng với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của tầng lớp trung lưu ở trong nước; bên cạnh đó, các tổ chức quốc tế vẫn đánh giá Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất khu vực, thế giới thời gian tới cho thấy thị trường trong nước tương đối lớn, tiềm năng phát triển cao, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, chuyển đổi số đang được triển khai mạnh mẽ.

Cùng với đó, Việt Nam vẫn được đánh giá là quốc gia có nhiều tiềm năng thu hút FDI, đặc biệt trong xu thế chuyển dịch cơ cấu, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, sản xuất hiện nay.

Khó khăn, thách thức:

+ Cạnh tranh chiến lược của các nước lớn ngày càng gay gắt; xung đột gia tăng, các vấn đề an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp… góp phần làm chậm quá trình phục hồi của kinh tế thế giới, thậm chí gây ra tình trạng tăng trưởng thấp, lạm phát cao; hầu hết các nước vẫn thắt chặt chính sách tiền tệ; chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy cục bộ khiến tổng cầu thế giới suy giảm, nhất là những thị trường lớn, truyền thống của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc… Tác động này ảnh hưởng cả đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp khiến đơn hàng sụt giảm, cạnh tranh gia tăng gây khó khăn cho cả doanh nghiệp đang hoạt động và sự hình thành của các doanh nghiệp mới. Ngoài ra, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến mọi mặt sản xuất kinh doanh và đến nay hậu quả còn kéo dài, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới.

+ Các tiêu chuẩn, điều kiện về hàng hóa nhập khẩu, nhất là tiêu chuẩn xanh là thách thức lớn. Quy định về thuế tối thiểu toàn cầu buộc Việt Nam phải có cơ chế, chính sách thích ứng thu hút FDI phù hợp.

+ Khoa học, công nghệ phát triển mạnh mẽ, chuyển đổi số nhanh chóng, ngày càng trở thành nhân tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, dần dần trở thành điều kiện tiên quyết, là thách thức cho cả doanh nghiệp đang hoạt động và doanh nghiệp mới thành lập.

+ Thủ tục hành chính còn nặng nề, rườm rà, quy trình thanh tra, kiểm tra chưa được số hóa mạnh mẽ gây mất thời gian, chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.

+ Nhiều ngành, lĩnh vực chưa tự chủ được nguồn nguyên liệu, nhất là nguồn nguyên liệu đáp ứng tiêu chuẩn xanh.

+ Chi phí logistics trong nước còn ở mức cao; hệ thống hạ tầng giao thông tuy được cải thiện nhưng tính liên kết chưa đáp ứng nhu cầu làm gia tăng chi phí hoạt động cho doanh nghiệp.

+ Tính kết nối giữa sản xuất và thị trường trong nước chưa cao, chưa tận dụng và khai thác hiệu quả thị trường trong nước.

Giải pháp phát triển doanh nghiệp:

– Tận dụng hiệu quả thị trường trong nước từ cả hai phía:

(1) Kích thích tiêu dùng trong nước bằng các biện pháp kích cầu tiêu dùng (miễn, giảm các loại thuế, phí như thuế VAT; tổ chức rộng khắp các chương trình khuyến mại, kích cầu tiêu dùng, đặc biệt trong các dịp lễ tết, cuối năm; đẩy mạnh phong trào “Người Việt Nam tiêu dùng hàng Việt Nam…);

(2) Có cơ chế, chính sách gắn kết mạnh mẽ giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước… Bên cạnh đó, phát triển mạnh thương mại điện tử; tăng cường kết nối, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, nhất là hàng thiết yếu; tăng cường phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại…

– Khai thác triệt để thị trường quốc tế:

(1) Duy trì, phát triển các thị trường truyền thống;

(2) Mở rộng thị trường mới, tận dụng hiệu quả các hiệp định Việt Nam đã ký kết; ; đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới để tiếp tục mở rộng thị trường quốc tế;

(3) Theo sát các thị trường tiềm năng, nhất là về nhu cầu, điều kiện, tiêu chuẩn để cung cấp đầy đủ thông tin cho các doanh nghiệp trong nước cùng với các cơ chế, chính sách định hướng phát triển doanh nghiệp phù hợp;

(4) Doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn mới, nhất là tiêu chuẩn xanh;

(5) Tổ chức các trường trình xúc tiến thương mại, tham gia các hội chợ, triển lãm lớn trên thế giới để tăng cường quảng bá sản phẩm, hàng hóa trong nước.

– Về đầu tư: Đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện quyết liệt Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội; phát huy tối đa các nguồn lực đầu tư của các tập đoàn, doanh nghiệp Nhà nước, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân.

– Thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài; tăng cường hợp tác công tư (PPP); tích cực, chủ động thu hút FDI có chọn lọc, bảo đảm chất lượng; chú trọng chuyển giao công nghệ, liên kết với doanh nghiệp trong nước và tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực, toàn cầu.

– Về thể chế, cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính:

(1) Tập trung rà soát quy định pháp luật, cơ chế, chính sách, kịp thời phát hiện những bất cập, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh (xác định rõ quy định pháp luật cụ thể còn bất cập, vướng mắc, thẩm quyền xử lý) để chủ động sửa đổi, hoàn thiện phù hợp với diễn biến, tình hình mới;

(2) Nâng cao hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả các dịch vụ công quốc gia; kiên quyết cắt bỏ và tuyệt đối không ban hành thêm các thủ tục hành chính không cần thiết, làm tăng chí phí, thời gian thực hiện của người dân, doanh nghiệp;

(3) Đẩy mạnh chuyển đổi số, thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt cùng với có cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi phù hợp, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn với khả năng hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp nhỏ và vừa.

– Phát huy mạnh mẽ vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp trong nước làm vai trò kết nối giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước; giữa doanh nghiệp với thị trường trong nước, quốc tế và gia tăng khả năng bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp trong nước khi tham gia thị trường quốc tế, tạo điều kiện hỗ trợ tốt hơn đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp nhỏ và vừa.


Tình trạng xử lý nước thải, bảo vệ môi trường tại Việt Nam và bài học từ Đan Mạch

Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng phát triển, Việt Nam cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc (SDG), trong đó bảo vệ tài nguyên nước và môi trường là ưu tiên hàng đầu, đặc biệt là xử lý nước thải, đã và đang trở thành thách thức lớn (14/01/2025)

Kế hoạch tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Tổng cục Thống kê lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2025-2030

Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14/6/2024; Kế hoạch số 182-KH/ĐUK ngày 29/7/2024 và Kế hoạch số 273-KH/ĐUBKHĐT ngày 16/9/2024, BCH Đảng bộ TCTK ban hành Kế hoạch tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Tổng cục Thống kê lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2025-2030. (08/11/2024)

Saigon Co.op xuất khẩu hàng sang thị trường Mỹ

Ngày 23/10, Công ty TNHH MTV phân phối Saigon Co.op (SCD) và Công ty STC Natural Vina tiến hành bàn giao hàng hoá sản xuất tại Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ. (24/10/2024)

Thái Nguyên hướng đến chuyển đổi xanh

Để giải quyết các tác động của biến đổi khí hậu, chủ động nắm bắt cơ hội của quá trình chuyển đổi carbon thấp, UBND tỉnh Thái Nguyên đang triển khai kế hoạch hành động tăng trưởng xanh để thực hiện hiệu quả phương án bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu và mục tiêu tăng trưởng xanh. (23/10/2024)

De Heus góp phần vào phát triển chăn nuôi bền vững để hướng tới Net Zero

Phát triển bền vững trong ngành nông nghiệp không chỉ ở việc cải thiện các yếu tố môi trường, mà còn là việc nâng cao hiệu quả chăn nuôi để tối ưu hóa tài nguyên, cũng như xây dựng năng lực và lợi nhuận bền vững cho toàn bộ chuỗi giá trị. Hiểu được nhu cầu của mỗi phân khúc chăn nuôi, Tập đoàn De Heus luôn linh hoạt xây dựng các giải pháp để mỗi khách hàng đều có thể phát triển trang trại của mình trên toàn cầu một cách bền vững. (22/10/2024)

PV GAS tăng tốc, đẩy mạnh mô hình kinh doanh tích hợp

Tại Hội nghị kinh doanh và phát triển thị trường khí được tổ chức tuần qua tại Bà Rịa – Vũng Tàu, Tổng Giám đốc PV GAS Phạm Văn Phong khẳng định nhanh chóng tăng tốc, đẩy mạnh mô hình kinh doanh tích hợp phù hợp với Quy chế quản lý hoạt động kinh doanh các sản phẩm khí mới ban hành, với mục tiêu cao nhất là đưa PV GAS tiếp tục tăng trưởng và phát triển bền vững. (21/10/2024)

Xem thêm