Trong 6 tháng đầu năm 2022, thị trường hàng hóa thế giới tiếp tục có nhiều biến động và chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, chính trị. Kinh tế thế giới phục hồi, nhu cầu nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất tăng cao trong khi nguồn cung bị đứt gãy khiến giá cả hàng hóa trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng mạnh. Bên cạnh đó, cuộc chiến giữa Nga và Ucraina càng đẩy giá nguyên liệu, nhiên liệu tăng cao và thế giới có nguy cơ phải đối diện với một cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu. Lạm phát tại nhiều nước đạt mức kỷ lục trong tháng 5/2022, lạm phát của Mỹ tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước, cao nhất kể từ năm 1981, lạm phát của khu vực đồng Euro tăng 8,1%, gấp 4 lần lạm phát mục tiêu 2% của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Tại châu Á, lạm phát tháng 5/2022 của Thái Lan tăng 7,1%; Hàn Quốc tăng 5,4%; In-đô-nê-xi-a tăng 3,55%; Nhật Bản tăng 2,5%; Trung Quốc tăng 2,1%.

Trong nước, kinh tế phục hồi mạnh, nhu cầu sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu cùng với tác động của giá hàng hóa thế giới đã đẩy giá hàng hóa và dịch vụ thiết yếu tăng lên nhưng nhìn chung, mặt bằng giá cơ bản được kiểm soát tốt. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm nay tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước. Để chủ động ứng phó với những thách thức trước áp lực lạm phát gia tăng, trong thời gian qua Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn giá, giúp ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân.

Đến nay, mặt bằng giá trong nước vẫn cơ bản được kiểm soát nhưng áp lực lạm phát trong những tháng còn lại của năm khá lớn. Diễn biến giá cả hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu trên thế giới đang tiếp tục tăng mạnh trong bối cảnh chiến sự Nga – Ucraina còn phức tạp gây gián đoạn chuỗi cung ứng, đặc biệt là giá xăng dầu tạo áp lực lớn đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp và tiêu dùng của người dân. Cùng với tác động của các gói hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng, kinh tế Việt Nam có khả năng phục hồi mạnh hơn trong các tháng còn lại của năm, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng sẽ đẩy giá cả hàng hóa lên cao. Chính vì vậy, công tác quản lý, điều hành giá trong thời gian tới cần tiếp tục thực hiện một cách thận trọng, chủ động và linh hoạt nhằm bảo đảm kiểm soát tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2022 ở mức khoảng 4% theo mục tiêu Quốc hội đề ra.

PHẦN I: CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG

Giá xăng dầu trong nước liên tục tăng cao theo giá nhiên liệu thế giới; giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu tăng theo giá nguyên liệu đầu vào và chi phí vận chuyển là những nguyên nhân chủ yếu làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2022 tăng 0,69% so với tháng trước; tăng 3,18% so với tháng 12/2021 và tăng 3,37% so với cùng kỳ năm trước.

CPI bình quân quý II/2022 tăng 2,96% so với quý II/2021. Bình quân 6 tháng đầu năm, CPI tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 1,25%.

I. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG THÁNG 6/2022

So với tháng trước, CPI tháng 6/2022 tăng 0,69% (khu vực thành thị tăng 0,7%; khu vực nông thôn tăng 0,67%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 9 nhóm hàng tăng giá so với tháng trước; 2 nhóm hàng giảm giá.

Diễn biến giá tiêu dùng tháng 6/2022 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:

1. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+0,8%)

Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 6/2022 tăng 0,8% so với tháng trước, tác động làm CPI chung tăng 0,27 điểm phần trăm, trong đó lương thực tăng 0,16%, tác động tăng 0,01 điểm phần trăm; thực phẩm tăng 0,98%, tác động tăng 0,21 điểm phần trăm; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,65%, tác động tăng 0,06 điểm phần trăm.

1.1. Lương thực (+0,16%)

Chỉ số giá nhóm lương thực tháng 6/2022 tăng 0,16% so với tháng trước, trong đó chỉ số giá nhóm gạo tăng 0,09% (Gạo tẻ ngon tăng 0,11%; gạo tẻ thường tăng 0,08%). Nguồn cung gạo trong nước dồi dào do các địa phương đã và đang thu hoạch lúa. Giá gạo tăng theo giá gạo xuất khẩu và giá vật tư phân bón, nguyên liệu đầu vào sản xuất ở mức cao.

Trong tháng, giá gạo tẻ thường dao động từ 12.200-14.500 đồng/kg (tăng từ 100-200 đồng/kg so với tháng trước); giá gạo Bắc Hương từ 17.900-20.800 đồng/kg; giá gạo tẻ ngon Nàng Thơm chợ Đào từ 18.500-20.500 đồng/kg; giá gạo nếp từ 24.700-35.500 đồng/kg.

Giá nguyên liệu đầu vào, giá cước vận chuyển tăng tác động đến giá các mặt hàng lương thực chế biến khác như giá bún, phở, bánh đa tăng 0,17% so với tháng trước; bột mì tăng 0,72%; bánh mì tăng 0,46%; miến tăng 0,4%; bột ngô tăng 0,83%; ngũ cốc ăn liền tăng 0,52%.

1.2. Thực phẩm (+0,98%)

Giá thực phẩm tháng 6/2022 tăng 0,98% so với tháng trước, nguyên nhân chủ yếu tập trung ở một số mặt hàng sau:

– Giá thức ăn chăn nuôi, giá vận chuyển tăng làm cho giá thịt gia cầm tăng 1,1% so với tháng trước, trong đó giá thịt gà tăng 1,03%; thịt gia cầm khác tăng 1,37%; thịt gia cầm đông lạnh tăng 0,28%. Bên cạnh đó, giá trứng các loại cũng tăng 1,58% so với tháng trước.

– Giá thủy hải sản tươi sống tăng 0,2% so với tháng trước do giá nhiên liệu tăng, trong đó giá cá tăng 0,39%; giá thủy hải sản tươi sống khác tăng 0,02%. Theo đó, giá thủy sản chế biến tháng Sáu tăng 0,52% so với tháng Năm.

– Giá thịt lợn tăng 0,87% so với tháng trước do giá thức ăn chăn nuôi tăng. Theo đó, thịt chế biến tăng 0,69% so với tháng trước, trong đó thịt quay, giò chả tăng 0,67%; thịt hộp tăng 1,08%; thịt chế biến khác tăng 0,28%.

– Giá dầu mỡ ăn và chất béo khác tăng 1,34% so với tháng trước do giá nguyên liệu đầu vào sản xuất dầu cọ tăng cao. Giá nước mắm, nước chấm tăng 0,79% so với tháng trước; đường, mật tăng 0,41%; sữa, bơ, pho mát tăng 0,41%; bánh, mứt, kẹo tăng 0,41%; chè, cà phê, ca cao tăng 0,37% do chi phí vận chuyển tăng.

– Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 3,56% so với tháng trước, chủ yếu do chi phí vận chuyển tăng. Trong đó, giá bắp cải tăng 7,48%; su hào tăng 4,72%; khoai tây tăng 4,94%; đỗ quả tươi tăng 7,08%; giá rau muống tăng 1,96%; rau dạng củ, quả tăng 3,73%.

1.3. Ăn uống ngoài gia đình (+0,65%)

Giá dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tháng 6/2022 tăng 0,65% so với tháng trước do giá xăng dầu cùng với giá nguyên liệu chế biến ở mức cao, nhu cầu đi du lịch tăng cao. Trong đó, chỉ số giá ăn ngoài gia đình tăng 0,66% so với tháng trước; uống ngoài gia đình tăng 0,27% và đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,84%.

2. Đồ uống và thuốc lá (+0,35%)

Chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá tháng 6/2022 tăng 0,35% so với tháng trước do nhu cầu tiêu dùng tăng lên trong mùa hè, đồng thời giá nguyên liệu đầu vào và giá vận chuyển tăng. Cụ thể, giá nước khoáng tăng 0,77% so với tháng trước; giá nước giải khát có ga tăng 0,49%; nước quả ép tăng 0,24%; nước uống tăng lực đóng chai 0,66%; rượu bia tăng 0,35% và thuốc hút tăng 0,24%.

3. May mặc, mũ nón, giày dép (+0,17%)

Chỉ số giá nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tháng 6/2022 tăng 0,17% so với tháng trước do giá nguyên phụ liệu sản xuất, chi phí vận chuyển và nhu cầu mua sắm vào mùa hè tăng. Trong đó, giá quần áo may sẵn tăng 0,14%; mũ nón tăng 0,34%; giày dép tăng 0,2%; dịch vụ may mặc tăng 0,26%.

4. Nhà ở và vật liệu xây dựng (-0,01%)

Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tháng 6/2022 giảm 0,01% so với tháng trước chủ yếu do giá gas giảm 6,17% so với tháng trước vì từ ngày 01/6/2022, giá gas trong nước điều chỉnh giảm 31.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới giảm 105 USD/tấn (từ mức 855 USD/tấn xuống mức 750 USD/tấn).

Bên cạnh đó, một số mặt hàng trong tháng có giá tăng so với tháng trước:

– Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,24% do giá xi măng, thép, gạch xây, gạch bê tông, tấm lợp, sơn tường tăng theo giá nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất.

– Giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,3% do công sơn tường, lát gạch, xây tường và công lao động phổ thông tăng từ 10% đến 20% do nhu cầu xây dựng tăng cao.

– Giá dầu hỏa tăng 10,26% so với tháng trước do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh giá ngày 01/6/2022, 13/6/2022 và 21/6/2022.

– Giá điện sinh hoạt tháng Sáu tăng 0,38% so với tháng trước[1]; giá nước sinh hoạt tăng 0,7% do nhu cầu sử dụng tăng trong mùa hè.

5. Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,31%)

Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tháng 6/2022 tăng 0,31% so với tháng trước, tập trung chủ yếu ở các mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng tăng cao vào mùa hè: Giá máy điều hòa nhiệt độ tăng 0,28% so với tháng trước; giá quạt điện tăng 0,47%; giá giường, tủ, bàn ghế tăng 0,47%… Ở chiều ngược lại, giá máy đánh trứng, trộn đa năng giảm 0,28%; lò vi sóng giảm 0,11%, ấm phích nước điện giảm 0,1% so với tháng trước.

6. Giao thông (+3,62%)

Chỉ số giá nhóm giao thông tháng 6/2022 tăng 3,62% so với tháng trước làm CPI chung tăng 0,35 điểm phần trăm, chủ yếu do:

– Ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu theo giá nhiên liệu thế giới vào ngày 1/6/2022, 13/6/2022 và 21/6/2022 làm cho giá xăng tăng 8,23%; giá dầu diezen tăng 8,5%.

– Giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 4,98% so với tháng trước do giá nhiên liệu tăng. Trong đó, giá vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 13,38%; bằng đường bộ tăng 3,02%; taxi tăng 2,91%; đường sắt tăng 2,67%; xe buýt tăng 1,69%.

– Giá xe ô tô mới, giá xe máy tăng lần lượt 0,62%, 0,86% do thiếu nguồn cung linh kiện bán dẫn khi Trung Quốc thực hiện chính sách “Zero Covid” khiến nhiều nhà máy phải sản xuất cầm chừng, thậm chí đóng cửa.

7. Văn hóa, giải trí và du lịch (+0,52%)

Chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tháng Sáu tăng 0,52% so với tháng trước chủ yếu do giá dịch vụ du lịch trong nước tăng 2,11%; du lịch ngoài nước tăng 1,29% và khách sạn, nhà khách tăng 0,63% do nhu cầu du lịch nội địa tăng cao vào mùa hè. Đồng thời, giá thiết bị văn hóa trong tháng tăng 0,05% so với tháng trước; giá dịch vụ thể thao tăng 1,52%, thiết bị dụng cụ thể thao tăng 0,29% do nhu cầu tăng trong dịp hè.

8. Hàng hóa và dịch vụ khác (+0,24%)

Chỉ số giá nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tháng 6/2022 tăng 0,24% so với tháng trước, tập trung chủ yếu ở mặt hàng đồ dùng cá nhân như máy dùng điện chăm sóc cá nhân tăng 0,32%; dịch vụ phục vụ cá nhân tăng 0,23%; dịch vụ hiếu hỉ tăng 0,54%; dịch vụ vệ sinh môi trường tăng 0,18%.

9. Chỉ số giá vàng (-1,14%)

Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 25/6/2022, bình quân giá vàng thế giới ở mức 1.843,29 USD/ounce, giảm 0,54% so với tháng 5/2022 do đồng USD mạnh lên và chính sách tiền tệ thắt chặt của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED). Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 6/2022 giảm 1,14% so với tháng trước; tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 6,63%.

10. Chỉ số giá đô la Mỹ (+0,72%)

Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới tăng sau khi Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nâng lãi suất 0,75 điểm phần trăm vào ngày 15/6/2022. Tính đến ngày 25/6/2022, chỉ số đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 103,62 điểm, tăng 0,5 điểm so với tháng trước. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do quanh mức 23.200 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2022 tăng 0,72% so với tháng trước và tăng 1,23% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 6 tháng đầu năm 2022 giảm 0,2%.

So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 6/2022 tăng 3,37%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 9 nhóm tăng giá và 2 nhóm giảm giá.

Các nhóm hàng tăng giá:

– Nhóm giao thông tháng 6/2022 tăng cao nhất với 21,41% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI chung tăng 2,07 điểm phần trăm, trong đó giá xăng dầu tăng 61,62% do giá xăng A95 tăng 11.960 đồng/lít; xăng E5 tăng 11.540 đồng/lít và dầu diezen tăng 13.900 đồng/lít.

– Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,22% chủ yếu do chi phí vận chuyển tăng và nguồn cung thuốc lá giảm.

– Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 3,4% do giá tour và khách sạn, nhà hàng tăng khi nhu cầu du lịch trong nước đang khôi phục trở lại.

– Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,53% do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng.

– Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,27%, chủ yếu do dịch Covid-19 được kiểm soát, nhu cầu ăn uống ngoài gia đình tăng 4,48%; giá lương thực tăng 2,87%.

– Bên cạnh đó, nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tháng Sáu tăng 1,49% so với cùng kỳ năm trước; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,99%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,37%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,21%.

Ở chiều ngược lại, có 2 nhóm hàng giảm giá:

– Nhóm giáo dục tháng 6/2022 giảm 2,13% so với cùng kỳ năm trước do từ học kỳ I năm học 2021-2022, một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương miễn, giảm học phí trong đại dịch.

– Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,5% do giá phụ kiện điện thoại thông minh giảm.

So với tháng 12/2021, CPI tháng Sáu tăng 3,18%, trong đó có 10 nhóm hàng tăng giá, riêng nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,32%.

Trong các nhóm tăng giá:

– Nhóm giao thông tháng 6/2022 tăng cao nhất với 14,42% so với tháng 12/2021, trong đó giá xăng dầu tăng 37,74% do từ đầu năm đến nay, giá xăng dầu trong nước đã điều chỉnh 16 đợt làm cho giá xăng A95 tăng 9.580 đồng/lít; xăng E5 tăng 8.750 đồng/lít và dầu diezen tăng 12.440 đồng/lít.

– Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,94% chủ yếu do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng.

– Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 3,35% do nhu cầu du lịch tăng cao sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát.

II. DIỄN BIẾN GIÁ TIÊU DÙNG QUÝ II NĂM 2022

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý II năm 2022 tăng 2,96% so với cùng kỳ năm 2021.

1. Các yếu tố làm tăng CPI trong quý II năm 2022

– Bình quân quý II/2022, giá xăng dầu trong nước tăng 54,92% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm CPI chung tăng 1,98 điểm phần trăm.

– Giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, bình quân quý II giá gas tăng 30,99% so với cùng kỳ năm trước, góp phần làm CPI chung tăng 0,45 điểm phần trăm.

– Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở quý II/2022 tăng 7,81% so với cùng kỳ năm trước do giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, làm CPI chung tăng 0,16 điểm phần trăm.

– Giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, quý II tăng 1,07% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm CPI chung tăng 0,03 điểm phần trăm.

2. Một số nguyên nhân làm giảm CPI trong quý II năm 2022

– Giá thịt lợn bình quân quý II/2022 giảm 18,65% so với cùng kỳ năm trước do dịch tả lợn Châu Phi được kiểm soát, nguồn cung thịt lợn đảm bảo, làm CPI giảm 0,63 điểm phần trăm.

– Giá dịch vụ giáo dục quý II giảm 2,86% do một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương miễn giảm học phí từ học kỳ I năm học 2021-2022 do ảnh hưởng của dịch Covid-19, làm CPI giảm 0,16 điểm phần trăm.

– Giá thuê nhà ở quý II năm nay giảm 12,33% so với cùng kỳ năm trước do từ 6 tháng cuối năm 2021 khi dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nhiều hộ gia đình giảm giá hỗ trợ người thuê nhà, tác động làm CPI giảm 0,06 điểm phần trăm.

III. DIỄN BIẾN GIÁ TIÊU DÙNG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2022

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 2,44% so với cùng kỳ năm 2021.

1. Một số nguyên nhân làm tăng CPI trong 6 tháng đầu năm 2022

– Trong 6 tháng đầu năm, giá xăng dầu được điều chỉnh 16 đợt, làm cho giá xăng A95 tăng 11.960 đồng/lít; xăng E5 tăng 11.540 đồng/lít và dầu diezen tăng 13.900 đồng/lít. Bình quân 6 tháng, giá xăng dầu trong nước tăng 51,83% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm CPI chung tăng 1,87 điểm phần trăm.

– Giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, giá gas 6 tháng đầu năm tăng 25,92% so với cùng kỳ năm trước, góp phần làm CPI chung tăng 0,38 điểm phần trăm.

– Dịch Covid-19 đã được kiểm soát, nhu cầu ăn ngoài nhà hàng tăng nên giá ăn uống ngoài gia đình bình quân 6 tháng đầu năm nay tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI chung tăng 0,3 điểm phần trăm.

– Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở 6 tháng tăng 7,95% so với cùng kỳ năm trước do giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tác động làm CPI chung tăng 0,16 điểm phần trăm.

– Giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng gạo nếp và gạo tẻ ngon trong dịp Tết Nguyên đán tăng cao làm cho giá gạo 6 tháng đầu năm 2022 tăng 1,09% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI chung tăng 0,03 điểm phần trăm.

2. Một số nguyên nhân làm giảm CPI trong 6 tháng đầu năm 2022

– Giá các mặt hàng thực phẩm 6 tháng đầu năm giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI giảm 0,08 điểm phần trăm, trong đó giá thịt lợn giảm 20,12%; giá nội tạng động vật giảm 9,52%; giá thịt chế biến giảm 3,89%.

– Giá dịch vụ giáo dục giảm 3,56% do một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương miễn giảm học phí từ học kỳ I năm học 2021-2022 do ảnh hưởng của dịch Covid-19, làm CPI chung giảm 0,19 điểm phần trăm.

– Giá bưu chính viễn thông giảm 0,55% so với cùng kỳ năm trước do giá điện thoại di động giảm.

IV. LẠM PHÁT CƠ BẢN

Lạm phát cơ bản[2] tháng 6/2022 tăng 0,44% so với tháng trước, tăng 1,98% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 6 tháng đầu năm 2022, lạm phát cơ bản tăng 1,25% so với cùng kỳ năm 2021, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 2,44%), điều này phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực và giá xăng dầu.

Bảng 2. Lạm phát cơ bản tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2018 – 2022

                                                                                                                        Đơn vị tính: %

 

 

PHẦN II: CHỈ SỐ GIÁ SẢN XUẤT, CHỈ SỐ GIÁ NGUYÊN NHIÊN  VẬT LIỆU DÙNG CHO SẢN XUẤT, CHỈ SỐ GIÁ XUẤT KHẨU
VÀ NHẬP KHẨU QUÝ II VÀ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2022

 Trong 6 tháng đầu năm 2022, áp lực lạm phát toàn cầu có xu hướng gia tăng do chịu tác động bởi các yếu tố kinh tế, địa chính trị và hệ quả của các biện pháp nới lỏng tài khóa, tiền tệ trong năm 2020-2021. Trong nước, nền kinh tế phục hồi rõ nét, nhu cầu sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng của người dân tăng cao, thị trường hàng hóa chịu ảnh hưởng từ biến động giá trên thị trường thế giới. Chỉ số giá sản xuất, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất, chỉ số giá xuất khẩu, nhập khẩu quý II và 6 tháng đầu năm 2022 đều tăng so với cùng kỳ năm 2021. Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn giá, hạn chế những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội.

I. CHỈ SỐ GIÁ SẢN XUẤT SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản quý II/2022 tăng 1,84% so với quý I/2022 và tăng 2,18% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,38% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan giảm 0,09%; lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 1,92%; thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 5,96%.

1. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan quý II/2022 tăng 1,19% so với quý trước và tăng 0,42% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, chỉ số giá sản phẩm từ cây hàng năm tăng 0,7% và tăng 2,97%; sản phẩm từ cây lâu năm tăng 1,86% và tăng 8,33%; sản phẩm từ chăn nuôi tăng 1,32% và giảm 9,89%; dịch vụ nông nghiệp tăng 1,65% và tăng 3,04%; sản phẩm từ săn bắt, đánh bẫy và dịch vụ có liên quan tăng 4,59% và tăng 4,65%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan giảm 0,09% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể:

Chỉ số giá sản phẩm từ cây hàng năm, 6 tháng đầu năm tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá thóc khô giảm 1,72%; giá sản phẩm ngô, cây lương thực có hạt khác tăng 8,45% do nhu cầu sử dụng làm thức ăn chăn nuôi trong và ngoài nước đều tăng cao.

Chỉ số giá sản phẩm từ cây lâu năm, 6 tháng tăng 9,01% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá cà phê nhân tăng 25,46% do giá cà phê trên thị trường quốc tế tăng mạnh. Giá sản phẩm cao su mủ khô tăng 4,73% theo giá thế giới do nhu cầu nhập khẩu tăng cao tại các thị trường lớn như châu Âu, Trung Quốc, Ấn Độ tăng cao.

Ở chiều ngược lại, giá sản phẩm cây ăn quả 6 tháng đầu năm nay giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước do nguồn cung tăng, các sản phẩm trái cây như xoài, bơ, thanh long vào vụ thu hoạch, xuất khẩu sản phẩm cây ăn quả sang Trung Quốc gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng dịch Covid-19, ngoài ra một số sản phẩm trái vụ tăng về sản lượng, tạo áp lực giảm giá trái cây chính vụ. Giá sản phẩm cây gia vị, cây dược liệu, cây hương liệu lâu năm giảm 2,37% do nhu cầu sử dụng giảm.

Chỉ số giá sản phẩm từ chăn nuôi, 6 tháng đầu năm 2022 giảm 11,54% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá sản phẩm chăn nuôi lợn và giống lợn giảm 25,88%, chủ yếu do giá thức ăn chăn nuôi và các chi phí đầu vào khác tăng làm cho các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ phải bán sớm cắt lỗ, đồng thời dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt nên nguồn cung dồi dào[3] trong khi nhu cầu tiêu dùng tương đối ổn định. Giá sản phẩm chăn nuôi gia cầm 6 tháng đầu năm tăng 4,38% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó giá sản phẩm chăn nuôi gà tăng 4,4%; vịt, ngan, ngỗng tăng 3,3%.

2. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan quý II/2022 tăng 1,66% so với quý I/2022 và tăng 2,48% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số giá sản xuất sản phẩm trồng rừng, chăm sóc rừng và cây giống lâm nghiệp tăng 0,32% và tăng 1,12%; gỗ khai thác tăng 2,7% và tăng 4,95%; lâm sản khai thác, thu nhặt khác trừ gỗ tăng 0,45% và giảm 1,64%; dịch vụ lâm nghiệp tăng 0,06% và tăng 2,99%.

Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá sản xuất sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 1,92% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm trồng rừng, chăm sóc rừng và cây giống lâm nghiệp tăng 1,1%; gỗ khai thác tăng 4,32% chủ yếu do chi phí đầu vào như xăng, dầu phục vụ khai thác gỗ tăng và giá gỗ trên thị trường thế giới tăng cao khiến trong nước đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu; lâm sản khai thác, thu nhặt khác trừ gỗ giảm 1,47%; dịch vụ lâm nghiệp tăng 2,47%.

3. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm thủy sản khai thác, nuôi trồng

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm thủy sản khai thác, nuôi trồng quý II/2022 tăng 3,79% so với quý trước và tăng 7,73% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó giá nhóm sản phẩm thủy sản khai thác tăng 3,01% và tăng 5,29%; nhóm thủy sản nuôi trồng tăng 4,3% và tăng 9,38%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá sản xuất sản phẩm thủy sản tăng 5,96% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá nhóm sản phẩm thủy sản khai thác tăng 3,15% chủ yếu do chi phí nguyên liệu đầu vào tăng cao, thời tiết bất lợi ảnh hưởng hoạt động khai thác thủy sản.

II. CHỈ SỐ GIÁ SẢN XUẤT SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý II/2022 tăng 2,1% so với quý trước và tăng 5,11% so với cùng kỳ năm 2021.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 4,75% so với cùng kỳ năm 2021. Biến động giá sản xuất 4 nhóm sản phẩm công nghiệp như sau:

1. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng quý II/2022 tăng 12,46% so với quý trước và tăng 27,16% so với cùng kỳ năm 2021.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng tăng 22,85% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số giá dầu thô và khí đốt tự nhiên bình quân 6 tháng tăng 44,86% do xung đột Nga – Ucraina đã đẩy giá các mặt hàng năng lượng tăng trong khi áp lực thiếu hụt nguồn cung lớn, dữ trữ dầu thô của các quốc gia giảm.

Chỉ số giá nhóm than cứng và than non 6 tháng đầu năm tăng 5,88% so với cùng kỳ năm trước do chi phí đầu vào tăng, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam điều chỉnh giá sản xuất các mặt hàng than đá tại một số đơn vị sản xuất theo Quyết định số 02/QĐ-TKV ngày 05/01/2022, Tổng công ty Đông Bắc điều chỉnh giá bán than thị trường trong nước theo Quyết định số 2489/QĐ-ĐB ngày 29/4/2022.

Chỉ số giá nhóm quặng kim loại và tinh quặng kim loại 6 tháng đầu năm tăng 18,28% so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của giá thế giới và lo ngại thiếu hụt nguồn cung từ Ô-xtrây-li-a, đặc biệt Trung Quốc là quốc gia sản xuất thép lớn nhất thế giới đang thực hiện chính sách cắt giảm sản lượng để bảo vệ môi trường và chính sách zero covid đã tác động đẩy giá nhóm hàng này tăng cao.

2. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo quý II/2022 tăng 1,72% so với quý trước và tăng 4,44% so với cùng kỳ năm 2021.

Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,14% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, một số mặt hàng có mức tăng giá khá cao như: Chỉ số giá than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 61,87% do chi phí đầu vào sản xuất và nhu cầu sử dụng nhiên liệu, xăng dầu trên thế giới tăng mạnh, đặc biệt chịu sự tác động của xung đột Nga – Ucraina. Chỉ số giá kim loại tăng 16,37% do giá sản phẩm sắt, thép tăng từ đầu năm 2022 theo giá thế giới; chi phí đầu vào sản xuất tăng; nguồn cung sắt, thép toàn cầu giảm. Trong nước, Chính phủ thực hiện chương trình phục hồi kinh tế, hoạt động xây dựng khởi sắc làm tăng nhu cầu sắt, thép xây dựng trên thị trường tăng cao. Chỉ số giá hóa chất tăng 8,86% do giá nguyên vật liệu đầu vào sản xuất hóa chất như nhựa thông, xăng dầu… và chi phí vận chuyển tăng. Chỉ số giá thực phẩm chế biến tăng 7,7% do chi phí đầu vào sản xuất các loại thực phẩm chế biến tăng như giá thức ăn chăn nuôi, dầu, mỡ động, thực vật chế biến và chi phí vận chuyển tăng; bên cạnh đó nguồn cung nguyên liệu sản xuất bị ảnh hưởng bởi xung đột Nga-Ucraina. Một số mặt hàng có mức giá ổn định hoặc thấp hơn mức bình quân chung như: chỉ số giá thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 1,91%, do dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát, nhu cầu sản phẩm thuốc, hóa dược và dược liệu giảm; chỉ số giá xe có động cơ, rơ moóc giảm 0,77%.

3. Chỉ số giá sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí

Chỉ số giá sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí quý II/2022 tăng 2,17% so với quý trước và tăng 4,28% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do chi phí nguyên nhiên vật liệu đầu vào sản xuất điện tăng như giá xăng dầu, giá khí đốt tác động làm tăng giá sản xuất của các nhà máy điện khí. Bên cạnh đó, giá than nhập khẩu và giá than trong nước tăng tác động tăng giá điện các nhà máy nhiệt điện sử dụng than làm nguyên liệu đầu vào sản xuất điện.

4. Chỉ số giá sản xuất cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải

Chỉ số giá sản xuất cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải quý II/2022 tăng 0,8% so với quý trước và tăng 1,89% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá sản xuất cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước, do chi phí đầu vào như: xăng, dầu phục vụ khai thác nước tăng, làm cho chỉ số giá sản phẩm nước tự nhiên khai thác tăng và Thành phố Hồ Chí Minh tăng giá nước từ tháng 1/2022.

III. CHỈ SỐ GIÁ SẢN XUẤT DỊCH VỤ

Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý II/2022 tăng 1,25% so với quý trước và tăng 3,57% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 2,83% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó dịch vụ vận tải, kho bãi tăng 5,86%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 4,43%; giáo dục và đào tạo tăng 0,74%; hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình tăng 2,02%; hoạt động dịch vụ khác tăng 2,4%.

1. Chỉ số giá dịch vụ vận tải, kho bãi

Chỉ số giá dịch vụ vận tải kho bãi quý II/2022 tăng 4% so với quý trước và tăng 8,17% so với cùng kỳ năm 2021, do giá xăng dầu trong nước tăng theo giá nhiên liệu thế giới. Trong nước, bình quân quý II/2022, giá xăng dầu tăng 54,92% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, trong quý II/2022 có kỳ nghỉ Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, nghỉ Lễ 30/4-1/5, trong điều kiện dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, sau 2 năm hạn chế đi lại để thực hiện phòng chống dịch, nhu cầu du lịch, thăm người thân của người dân tăng cao. Theo đó, nhóm dịch vụ vận tải hàng không quý II tăng cao nhất với 25,23% so với cùng kỳ năm trước; nhóm dịch vụ vận tải đường thủy tăng 10,59%; nhóm vận tải đường bộ và xe buýt tăng 8,64%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá dịch vụ vận tải, kho bãi tăng 5,86% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do giá xăng dầu tăng, trong đó: Chỉ số giá dịch vụ vận tải đường sắt, đường bộ tăng 5,94%, trong đó dịch vụ vận tải đường sắt tăng 6,58%; dịch vụ vận tải đường bộ và xe buýt tăng 5,87%. Chỉ số giá dịch vụ vận tải đường thủy tăng 12,91%, trong đó giá dịch vụ vận tải đường ven biển và viễn dương tăng 14,28%, do giá xăng dầu tăng, ảnh hưởng thiếu hụt con-ten-nơ rỗng từ cuối năm 2020, việc kiểm soát dịch Covid-19 ở Trung Quốc nghiêm ngặt nên thời gian vận chuyển bị kéo dài làm tăng chi phí và làm nhu cầu vận tải hàng hóa bằng đường biển tăng là những nguyên nhân chính đẩy giá vận tải đường thủy tăng cao. Chỉ số giá dịch vụ vận tải đường hàng không tăng 18,32% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do giá xăng dầu trong nước tăng theo giá nhiên liệu thế giới, nhu cầu đi lại tăng cao đã khiến giá vận tải hàng không trở về mức giá trước khi có dịch. Chỉ số giá dịch vụ kho bãi và các dịch vụ liên quan đến hỗ trợ vận tải 6 tháng đầu năm tăng 0,78% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ bưu chính và chuyển phát tăng 0,93%.

2. Chỉ số giá dịch vụ lưu trú và ăn uống

Chỉ số giá dịch vụ lưu trú và ăn uống quý II/2022 tăng 2,28% so với quý trước và tăng 5,5% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó dịch vụ lưu trú tăng 3,94% và tăng 8,03%; dịch vụ ăn uống tăng 2,01% và tăng 5,09%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 4,43% so với năm 2021. Trong đó: Chỉ số giá dịch vụ lưu trú 6 tháng tăng 5,29% so với cùng kỳ năm trước do dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, các cơ sở lưu trú, cơ sở kinh doanh hoạt động sôi động trở lại phục vụ khách du lịch, thêm vào đó tại các địa phương người lao động quay lại làm việc, nhu cầu thuê nhà trọ tăng cao tại các địa phương. Chỉ số giá dịch vụ ăn uống 6 tháng đầu năm tăng 4,29% so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do dịch Covid-19 được kiểm soát, hoạt động du lịch phục hồi rõ nét làm nhu cầu ăn uống ngoài gia đình tăng. Bên cạnh đó giá xăng dầu cùng với giá nguyên liệu chế biến tăng đã làm tăng giá dịch vụ ăn uống.

3. Chỉ số giá dịch y tế và trợ giúp xã hội

Chỉ số giá dịch vụ y tế và trợ giúp xã hội quý II/2022 tăng 0,42% so với quý trước và tăng 0,95% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá dịch vụ y tế và trợ giúp xã hội tăng 0,86% so với năm 2021 do thực hiện lộ trình tăng giá các dịch vụ trợ giúp xã hội đối với các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ.

4. Chỉ số giá dịch vụ giáo dục và đào tạo

Chỉ số giá dịch vụ giáo dục và đào tạo quý II/2022 tăng 0,32% so với quý trước do một số cơ sở giáo dục ngoài công lập phải tự chủ về kinh phí điều chỉnh mức tăng học phí phù hợp với quy định. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số giá dịch vụ giáo dục và đào tạo quý II/2022 tăng 0,88%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 0,74% so với năm 2021, chủ yếu do một số cơ sở giáo dục ngoài công lập ở một số địa phương điều chỉnh mức học phí từ học trực tuyến sang hình thức học trực tiếp sau khi học sinh trở lại trường.

5. Chỉ số giá hoạt động dịch vụ khác

Chỉ số giá hoạt động dịch vụ khác quý II/2022 tăng 0,97% so với quý trước và tăng 2,85% so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do giá xăng dầu trong nước tăng làm cho công thuê mướn nhân công và phí sửa chữa đồ dùng gia đình trong mùa hè tăng. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá hoạt động dịch vụ khác tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2021.

IV. CHỈ SỐ GIÁ NGUYÊN NHIÊN VẬT LIỆU DÙNG CHO SẢN XUẤT

Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý II/2022 tăng 2,23% so với quý trước và tăng 6,38% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4% và tăng 10,93%; dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,06% và tăng 6,04%; dùng cho xây dựng tăng 4,14% và tăng 10,4%.

Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý II/2022 tăng cao chủ yếu do: Chỉ số giá hoá chất cơ bản, phân bón và hợp chất nitơ, sản xuất plastic và cao su tổng hợp nguyên sinh quý II/2022 tăng 5,91% so với quý trước và tăng 33,38% so với cùng kỳ, do nguồn cung giảm, chi phí vận chuyển cao và nhu cầu tiêu dùng tăng. Chỉ số giá sản phẩm chế biến từ dầu mỏ trong nông nghiệp tăng 15,46% so với quý trước và tăng 34,9% so với cùng kỳ năm trước; trong công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,37% và tăng 31,42%; trong xây dựng tăng 25,83% và tăng 49,24%, nguyên nhân chủ yếu do Mỹ và EU cấm vận dầu đối với Nga, nguồn cung khan hiếm làm cho giá dầu mỏ trong nước tăng theo giá thế giới. Chỉ số giá thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản quý II/2022 tăng 3,07% so với quý trước và tăng 9,43% so với cùng kỳ năm 2021, chủ yếu do nguồn cung nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi trên thế giới giảm, thêm vào đó ảnh hưởng xung đột Nga – Ucraina đã tác động tới chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào sản xuất thức ăn chăn nuôi của thế giới, kết hợp chi phí vận chuyển tăng làm cho giá thức ăn chăn nuôi trong nước tăng.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất tăng 6,04% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 10,01%; dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,78%; dùng cho xây dựng tăng 9,32%.

Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất 6 tháng đầu năm tăng cao chủ yếu do các nhóm nguyên nhiên vật liệu thiết yếu trong sản xuất tăng, như: hoá chất cơ bản; phân bón và hợp chất nitơ; sản xuất plastic và cao su tổng hợp; thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản; dầu, mỡ động, thực vật chế biến; sản phẩm gang, sắt, thép; dịch vụ lắp đặt hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước.

V. CHỈ SỐ GIÁ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU, TỶ GIÁ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA

1. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý II/2022 tăng 3,31% so với quý trước và tăng 8,56% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm tăng 2,98% và tăng 9,56%; nhóm nhiên liệu tăng 33,91% và tăng 77,56%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 2,32% và tăng 6,36%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa tăng 8,03% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm tăng 9,44%; nhóm nhiên liệu tăng 66,27%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 6,04%.

Trong 40 nhóm hàng xuất khẩu chính, 39 nhóm hàng có chỉ số giá 6 tháng tăng so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: giá xuất khẩu dầu thô tăng 69,52% và xăng dầu tăng 67,73% theo giá nhiên liệu thế giới do nguồn cung mặt hàng này không đáp ứng đủ nhu cầu trong thời điểm các nền kinh tế mở cửa trở lại sau dịch Covid-19. Bên cạnh đó, việc Nga triển khai chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ucraina cùng với các biện pháp trừng phạt Nga của Mỹ và phương Tây đã làm giá xăng dầu thế giới tăng mạnh. Giá xuất khẩu phân bón tăng 52,96% do Nga – nhà cung cấp phân bón hàng đầu thế giới đã tạm dừng xuất khẩu từ tháng 3/2022 làm cho nguồn cung phân bón trên thế giới giảm, tạo áp lực tăng giá. Giá xuất khẩu sắt, thép tăng 21,37% do các nền kinh tế lớn trên thế giới đang trong giai đoạn phục hồi, quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng, kéo theo nhu cầu tiêu thụ thép tăng, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và lắp ráp ô tô. Ở chiều ngược lại, nhóm giấy và sản phẩm từ giấy có chỉ số giá xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2022 giảm 1,06% so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do giá nhóm bao bì đựng giảm.

  1. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa quý II/2022 tăng 2,62% so với quý trước và tăng 11,43% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm tăng 4,35% và tăng 11,23%; nhóm nhiên liệu tăng 20,83% và tăng 52,16%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 1,72% và tăng 9,77%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tăng 11,21% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm tăng 11,09%; nhóm nhiên liệu tăng 44,61%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 9,81%.

Trong 42 nhóm hàng nhập khẩu chính, 39 nhóm hàng có chỉ số giá 6 tháng tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Giá nhập khẩu xăng dầu tăng 49,51% theo giá xăng dầu thế giới. Giá nhập khẩu phân bón tăng 43,9% do nguồn cung phân bón đang khan hiếm và chi phí vận chuyển tăng cao. Nhập khẩu phân bón từ Nga gặp nhiều khó khăn, đặc biệt đối với phân kali do Nga và Belarus chiếm gần 50% lượng kali cung cấp trên toàn thế giới. Giá nhập khẩu sắt, thép tăng 38,39% do kinh tế thế giới đang trong giai đoạn phục hồi, nhu cầu cho sản xuất, xây dựng tăng cao. Trung Quốc áp đặt các biện pháp kiểm soát sản lượng nghiêm ngặt và giảm dần sản lượng xuất khẩu khiến nguồn cung sắt, thép toàn cầu sụt giảm. Bên cạnh đó, căng thẳng thương mại giữa Trung Quốc và Ô-xtrây-li-a đã gây sức ép lên nguồn cung quặng sắt trên thế giới. Giá nhập khẩu lúa mì tăng 29,35% do giá mặt hàng này ở Ca-na-đa và Ô-xtrây-li-a tăng cao, đồng thời do nguồn cung lúa mì thế giới giảm. Ở chiều ngược lại, có 3 nhóm hàng có chỉ số giá nhập khẩu 6 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm trước, bao gồm giá nhập khẩu xe máy, linh kiện và phụ tùng giảm 6,25%; giá nhập khẩu nguyên phụ liệu thuốc lá giảm 0,87%; giá nhập khẩu sản phẩm từ cao su giảm 0,23%.

  1. Tỷ giá thương mại hàng hóa

Tỷ giá thương mại hàng hóa (TOT)[4] quý II/2022 tăng 0,67% so với quý trước và giảm 2,57% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó sắt, thép tăng 10,34% và giảm 7,97%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 2,23% và giảm 4,73%; hàng rau quả giảm 0,31% và giảm 5,55%; cao su giảm 2,17% và giảm 2,9%; hàng thủy sản tăng 1,22% và tăng 5,3%; xăng dầu các loại tăng 12,52% và tăng

17,04%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 3,73% và tăng 8,24%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, TOT giảm 2,85% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sắt, thép giảm 12,3%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 6,95%; cao su giảm 3,75%; hàng rau quả giảm 3,36%; xăng dầu các loại tăng 12,18%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 5,62%; hàng thủy sản tăng 4%.

TOT 6 tháng đầu năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước do chỉ số giá xuất khẩu có mức tăng thấp hơn mức tăng của chỉ số giá nhập khẩu, phản ánh Việt Nam đang ở vị trí không thuận lợi khi giá hàng nhập khẩu có lợi thế hơn so với giá hàng xuất khẩu.

[1] Chỉ số giá điện sinh hoạt tháng 6/2022 được tính dựa trên doanh thu và sản lượng điện tiêu dùng từ ngày
01-31/5/2022, do đó phản ánh biến động trễ một tháng so với các mặt hàng khác.

[2] CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và giáo dục.

[3] Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2022 ước tính đạt 2.116,3 nghìn tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước.

 

[4] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.