LỜI GIỚI THIỆU 

Thực hiện Quyết định số 712/1999/QĐ-TCTK ngày1/10/1999 của Tổng cục Trưởng Tổng cục Thống kê; Năm 1999, cuộc điều tra đời sống, kinh tế hộ gia đình được triển khai trên phạm vi cả nước với quy mô mẫu 25.170 hộ ở 839 xã/phường, đại diện cho cả nước, 8 vùng và khu vực thành thị, nông thôn. Cuộc điều tra này được tổ chức thu thập thông tin theo phương pháp phỏng vấn trực tiếp của điều tra viên với chủ hộ, với cán bộ chủ chốt xã/ phường.

Tháng 6 năm 2000, Tổng cục Thống kê biên soạn một số chỉ tiêu chủ yếu về “Kết quả điều tra đời sống, kinh tế hộ gia đình năm 1999” nhằm phục vụ cho các cấp, các ngành nghiên cứu đánh giá tình hình đời sống các tầng lớp dân cư.

Nội dung tài liệu gồm:

Phần I   : Một số nhận xét về đời sống dân cư và phân hoá giàu nghèo ở nước ta.

Phần II  : Đời sống dân cư: Thu nhập, Chi tiêu.

Phần III : Giáo dục, y tế và đầu tư tích luỹ.

TỔNG CỤC THỐNG KÊ

Năm 1999, tình hình kinh tế của nước ta diễn biến tương đối phức tạp do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính của các nước trong khu vực và thiệt hại về sản xuất do lũ lụt ở các tỉnh miền Trung; Nhưng tổng sản phẩm trong nước vẫn tăng, thời kỳ 1996 – 1999 tăng với tốc độ bình quân 6,1%; riêng năm 1999 tăng chậm hơn với mức 4,8% so năm 1998, là năm có tốc độ tăng thấp nhất kể từ năm 1990 đến nay. Nhìn chung năm 1999, kinh tế nước ta vẫn có bước phát triển, khá nhất là sản xuất nông nghiệp đặc biệt là sản xuất lúa được mùa cả 3 vụ, sản lượng lương thực đạt 34,25 triệu tấn tăng gần 7,5% so với năm 1998.

Đời sống của dân cư ổn định đại đa số được cải thiện và khá hơn năm trước, công tác xoá đói giảm nghèo đạt được kết quả đáng phấn khởi, nhiều người nghèo đặc biệt ở vùng khó khăn được hưởng thành quả của chương trình xoá đói giảm nghèo đã thoát khỏi ngưỡng nghèo. Nhờ vậy, hộ  nghèo về lương thực thực phẩm có xu hướng giảm xuống, tính chung toàn quốc tỷ lệ hộ nghèo năm 1999 là 13,33% giảm hơn so các năm trước (năm 1993: 19,99%; 1994: 17,81%; 1995: 16,5%; 1996: 15,7%; 1997-1998: 14,98%). Tỷ lệ này ở thành thị, nông thôn và các vùng cũng có xu hướng tương tự như trên.

Tuy hộ đói nghèo giảm, nhưng tình trạng phân hoá giàu nghèo trong dân cư vẫn có xu hướng gia tăng cả ở khu vực thành thị, nông thôn và các vùng trên phạm vi cả nước. Cuộc điều tra Đời sống- kinh tế hộ gia đình năm 1999 ở 61 tỉnh/TP có kết quả như sau:

  1. Thu nhập của hộ dân cư

Mặc dù mấy năm gần đây nền kinh tế của nước ta gặp một số khó khăn như đã nêu ở trên là do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính của các nước trong khu vực và thiên tai liên tiếp xảy ra, nhưng nhờ sự điều hành và những biện pháp tích cực của Chính phủ, sự nỗ lực của các ngành, các cấp nên nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục tăng trưởng. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng của hộ gia đình năm sau cao hơn năm trước, trừ những hộ ở vùng bị thiên tai lũ lụt nặng như khu vực miền Trung và thuộc những xã đặc biệt khó khăn và biên giới .Theo kết quả điều tra, thu nhập của hộ như sau:

 

THU NHẬP BÌNH QUÂN 1 NGƯỜI 1 THÁNG


Năm

1996

(1000 đồng)

Năm

1999

(1000 đồng)

Tốc độ tăng

bình quân

thời kỳ 1996-1999

(%)

CẢ NƯỚC

226,7 295,0  8,78
1. Chia theo khu vực  
– Thành thị 509,4 832,5 16,37
– Nông thôn 187,9 225,0  6,01
2. Chia theo vùng
– Tây Bắc và Đông Bắc 173,8 210,0  6,31
– Đồng bằng sông Hồng 223,3 280,3  7,60
– Bắc Trung Bộ 174,1 212,4  6,63
– Duyên hải Nam Trung Bộ 194,7 252,8  8,70
– Tây Nguyên 265,6 344,7  8,69
– Đông Nam Bộ 378,1 527,8 11,12
– Đồng bằng sông Cửu Long 242,3 342,1 11,50

Năm 1999, tính chung cả nước thu nhập bình quân 1 người 1 tháng theo giá hiện hành là 295 nghìn đồng, năm 1996 là 226,7 nghìn đồng tăng bình quân là 8,78% trong thời kỳ 1996 – 1999. Nếu loại trừ ảnh hưởng của yếu tố tăng giá thì thu nhập thực tế tăng 4,6%; thấp hơn tỷ lệ tăng thu nhập thực tế của năm 1995: 10%; 1996: 5,5%. Trong tổng thu nhập của hộ, tỷ lệ thu từ tiền lương, tiền công là 22,5%, thu sản xuất nông lâm nghiệp, thuỷ sản 41,6%, thu sản xuất công nghiệp, xây dựng 8,5%, thu về hoạt động dịch vụ 15,9%, các khoản thu khác 11,5%.

Nhìn chung thu nhập ở khu vực thành thị, nông thôn và các vùng đều tăng.

Thu nhập của khu vực thành thị  832,5 nghìn đồng/người/tháng, với tốc độ tăng hàng năm 16,37% trong thời kỳ 1996 – 1999.

Thu nhập ở khu vực nông thôn 225 nghìn đồng/người/tháng,  với tốc độ tăng hàng năm 6,01% trong thời kỳ 1996-1999. Trong tổng thu nhập của khu vực này, thu từ sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản là chủ yếu với tỷ lệ 58,5%; thu từ sản xuất công nghiệp, xây dựng 5%;  thu về dịch vụ 9,8%. Như vậy  sự chuyển dịch cơ cấu thu nhập trong nông thôn còn chậm so với năm trước.

Năm 1999, thu nhập của khu vực thành thị so với thu nhập của  nông thôn gấp 3,7 lần và có xu hướng tăng dần qua các năm: Năm 1994: 2,55 lần; 1995: 2,63 lần; 1996: 2,71 lần; 1999: 3,7 lần.

Ở các vùng địa lý thu nhập bình quân 1 người 1 tháng đều tăng so với năm 1996. Vùng Tây Bắc và Đông Bắc: 210 nghìn đồng (+6,3%), Đồng bằng sông Hồng: 280,3 nghìn đồng(+7,6%), Bắc Trung Bộ: 212,4 nghìn đồng (+6,6%), Duyên hải Nam Trung Bộ: 252,8 nghìn đồng(+8,7%), Tây Nguyên: 344,7 nghìn đồng (+8,7%), Đông Nam bộ: 527,8 nghìn đồng(+11,1%), Đồng bằng sông Cửu Long: 342,1 nghìn đồng(+11,5%).

  1. Chi tiêu của hộ dân cư

Nhờ thu nhập tăng, đời sống dân cư được cải thiện rõ rệt. Năm 1999 tính chung cả nước chi đời sống bình quân đầu người 1 tháng là 221,1 nghìn đồng, tăng bình quân 6,4% trong thời kỳ 1996-1999 và chậm hơn tốc độ tăng thu nhập. Chi đời sống của khu vực thành thị 559,2 nghìn đồng 1 người 1 tháng, tốc độ tăng bình quân 11,6% một năm; Ở nông thôn 175,0 nghìn đồng 1 người 1 tháng, tốc độ tăng bình quân 4,4% một năm. Chi đời sống của các vùng đều tăng, trong đó tăng nhanh là vùng Đông Nam Bộ 9,0%, Đồng bằng sông Cửu Long 8,2%, tăng thấp nhất là vùng Tây Bắc và Đông Bắc.

Mức chi tiêu bình quân đầu người năm 1999 của các hộ khu vực thành thị cao gấp 3,1 lần khu vực nông thôn (tỷ số này năm 1996 là 2,5 lần). So sánh chi đời sống bình quân đầu người năm 1999: Khu vực thành thị gấp 3,2 lần khu vực nông thôn; Nhóm hộ giàu (20% số hộ thu nhập cao nhất) gấp 4,2 lần nhóm hộ nghèo (nhóm thấp nhất).

– Đáng lưu ý là năm 1999 mặc dù vùng Duyên hải Nam Trung Bộ bị thiên tai lũ lụt, hạn hán … nhưng mức sống dân cư của cả nước nói chung  cũng như các vùng vẫn ổn định và tiếp tục được cải thiện. Chi ăn uống hút năm 1999 bình quân đầu người 1 tháng là 139,98 nghìn đồng, bình quân mỗi năm tăng 4,0% trong thời kỳ 1996-1999, trong đó khu vực thành thị 328,14 nghìn đồng, tăng bình quân 7,8%, khu vực nông thôn 114,98 nghìn đồng, tăng bình quân 2,5%. Cơ cấu chi dùng lương thực, thực phẩm (ăn uống, hút) trong chi đời sống đã giảm xuống, ngược lại chi dùng cho phi lương thực, thực phẩm tăng lên. Cụ thể như sau:

TỶ LỆ CHI ĂN UỐNG, HÚT TRONG CHI ĐỜI SỐNG CỦA HỘ

                  Đơn vị tính:%


Năm 1996 Năm 1999
CẢ NƯỚC 67,96 63,31
1. Chia theo khu vực
 – Thành thị 65,77 58,68
 – Nông thôn 69,43 65,70
2. Chia theo vùng
 – Đông Bắc và Tây Bắc 72,64 65,57
 – Đồng bằng sông Hồng 66,59 60,50
 – Bắc Trung Bộ 67,35 62,99
 – Duyên hải Nam Trung Bộ 68,87 63,50
 – Tây Nguyên 66,39 65,00
 – Đông Nam Bộ 64,93 58,69
 – Đồng bằng sông Cửu Long 66,79 63,10
3. Chia theo nhóm thu nhập
 – Nhóm 1 76,91 72,55
 – Nhóm 2 75,27 69,15
 – Nhóm 3 72,31 65,70
 – Nhóm 4 65,22 60,34
 – Nhóm 5 57,65 52,78

– Khi mức sống ổn định và được cải thiện thì chi tiêu cho nhu cầu ăn uống của dân cư tuy có tăng nhưng chậm hơn chi tiêu về các khoản ngoài ăn uống (như may mặc, ở, thiết bị đồ dùng, Y tế chăm sóc sức khoẻ, Giáo dục, văn hoá…).

 

MỨC CHI  TIÊU MỘT SỐ KHOẢN NGOÀI ĂN UỐNG BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI 1 NĂM


Năm 1996 (1000 đ) Năm 1999 (1000 đ)
Chi may mặc Thiết bị, đồ dùng Văn hoá, thể thao Chi may mặc Thiết bị, đồ dùng Văn hoá, thể thao
CẢ NƯỚC 124,3 87,4 43,0 137,4 102,6 60,7
1. Chia theo khu vực
 – Thành thị 251,0 180,5 119,9 325,4 230,9 179,2
 – Nông thôn 107,4 74,8 30,5 112,8 86,5 43,9
2. Chia theo vùng
 – Đông Bắc và Tây Bắc 109,0 70,0 25,6 119,9 91,8 40,3
 – Đồng bằng sông Hồng 102,6 100,1 44,6 120,7 124,0 71,9
 – Bắc Trung Bộ 94,7 74,8 24,5 101,0 90,4 33,5
 – Duyên hải Nam Trung Bộ 112,6 70,3 30,5 122,0 72,7 42,8
 – Tây Nguyên 168,8 111,5 58,6 143,8 96,7 74,8
 – Đông Nam Bộ 209,6 136,2 105,1 262,4 160,3 150,6
 – Đồng bằng sông Cửu Long 135,7 92,0 47,8 161,4 115,7 67,2

– Khối lượng chi dùng một số mặt hàng ăn uống: Tiêu dùng gạo bình quân đầu người 1 tháng giảm từ 13,4 Kg năm 1996 xuống còn 13,1 Kg năm 1999, khu vực thành thị từ 11,2 Kg giảm còn 9,7 Kg. Lượng gạo của các hộ tại 6 trong 7 vùng (trừ vùng Đông Bắc và Tây Bắc) đều giảm; Các mặt hàng: Thịt, mỡ dầu ăn, trứng, đỗ lạc vừng, đường mật… tăng hơn các năm trước. Riêng lượng tiêu dùng quả chín, rau tươi của dân cư khu vực thành thị và các vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ có xu hướng tăng lên.

III. Tích luỹ của hộ gia đình

Những năm gần đây, đời sống của nhân dân nhìn chung không có những biến động lớn, một bộ phận lớn dân cư được cải thiện đáng kể nhờ có các nguồn thu nhập tăng tương đối ổn định, đặc biệt tốc độ tăng thu nhập từ 1996-1999 tăng nhanh hơn tốc độ tăng của chi tiêu. Vì vậy, ngoài phần chi tiêu dùng cho đời sống hàng ngày, phần lớn các hộ dân cư đã có đầu tư tích luỹ.

Kết quả đầu tư tích luỹ về nhà ở và tài sản cố định của dân cư từ năm 1996 – 1999 như sau:


1996 1999
– Tổng sản phẩm trong nước (GDP) (tỷ đồng) (*) 272.036 399.942
– Tổng tích luỹ TSCĐ của toàn bộ nền kinh tế (tỷ đồng)  (*) 71.597 101.658
– Trị giá đầu tư về nhà ở và TSCĐ trong các hộ dân cư (tỷ đồng) 16.448 26.144
  + So với GDP (%) 6,05 6,54
  + So với tích luỹ TSCĐ của toàn bộ nền kinh tế (%) 22,97 25,72

 

(*) Nguồn: Niên giám Thống kê 1996 – 1999.

Năm 1999 tính riêng trị giá đầu tư tích luỹ về xây dựng nhà ở và mua sắm tài sản cố định ở khu vực dân cư bình quân một hộ 1.565,5 nghìn đồng tăng 43,44% so với năm 1996 (1565,5/1091,38 nghìn đồng), tốc độ tăng bình quân hàng năm 12,02% trong thời kỳ 1996-1999. Trong đó khu vục thành thị tăng 16,47%, khu vực nông thôn tăng 11,77%.

Nhìn chung, vốn đầu tư tích luỹ nhà ở, tài sản cố định năm 1999 của dân cư giữa các vùng có sự chênh lệch đáng kể. Vùng núi Đông Bắc và Tây Bắc mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất và cũng là vùng có mức tăng trưởng thu nhập bình quân hàng năm thấp hơn các vùng khác, vì vậy mức đầu tư tích luỹ về nhà ở và tài sản cố định cũng thấp nhất trong tất cả các vùng, bình quân 1 hộ 1.212,9 nghìn đồng, chỉ bằng 77,48% mức bình quân chung trong cả nước. Ngược lại, vùng Đông nam Bộ trong vòng 3 năm qua tốc độ tăng thu nhập bình  quân hàng năm đạt 11,12%, do vậy mức đầu tư tích luỹ về nhà ở và tài sản cố định là vùng cao nhất 2.923,2 nghìn đồng/hộ, cao hơn 86,72%  mức đầu tư chung và gấp 2,41 lần mức đầu tư của một hộ ở vùng núi  Đông Bắc và Tây Bắc.

Trị giá đầu tư tích luỹ về xây dựng nhà ở và mua sắm tài sản cố định của các hộ giữa các ngành sản xuất kinh doanh chính cũng có sự khác nhau. Các hộ thuộc các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chủ yếu sống ở khu vực nông thôn, vùng núi hoặc vùng sâu vùng xa thường có mức thu nhập thấp, một bộ phận nhỏ hàng năm vẫn còn có khó khăn trong đời sống, do vậy đây là nhóm hộ có trị giá vốn đầu tư tích luỹ bình quân 1 hộ/năm thấp nhất 1.281,39 nghìn đồng. Ngược lại nhóm hộ thuộc các ngành dịch vụ có số vốn đầu tư tích luỹ cao gấp 3,52 lần trị giá đầu tư tích luỹ của nhóm hộ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (4.514,53/1.261,39 nghìn đồng), cao gấp 2,88 lần mức bình quân chung của cả nước.

Trị giá đầu tư tích luỹ về xây dựng nhà ở và mua sắm tài sản cố định cũng phụ thuộc vào các nhóm thu nhập. Nhóm có thu nhập thấp nhất (nhóm 1) 620,02 nghìn đồng chỉ bằng 39,6% mức bình quân chung. Nhóm có mức thu nhập cao nhất (nhóm 5) 6.059,12 nghìn đồng, chênh lệch về mức đầu tư tích luỹ giữa nhóm 5 và nhóm 1 là 9,7 lần.

Về cơ cấu đầu tư, trong tổng trị giá đầu tư tích luỹ thì tỷ lệ đầu tư về nhà ở chiếm 68%, còn lại 32% đầu tư cho tài sản cố định, trong đó vùng Đông nam Bộ tỷ lệ đầu tư về nhà ở cao nhất chiếm 79,09%, Tây Nguyên tỷ lệ này chỉ chiếm 64,4%. Trong tổng trị giá vốn đầu tư tích luỹ về tài sản cố định có 15,58% là đất kinh doanh, 33,92% là nhà xưởng, máy móc thiết bị, gia súc gia cầm chỉ có 6,27%.

Ước tính  tổng trị giá đầu tư tích luỹ về xây dựng nhà ở và mua sắm tài sản cố định ở khu vực dân cư khoảng 26,1 nghìn tỷ đồng chiếm 25,7% so với tích luỹ tài sản của toàn bộ nền kinh tế và chiếm 6,54% so với tổng sản phẩm trong nước (GDP).

  1. Sự phân hoá giàu nghèo trong dân cư.

Theo kết quả tổng hợp số liệu điều tra, thu nhập của những hộ nghèo và hộ giàu đều tăng, và  tốc độ tăng của hộ giàu nhanh hơn hộ nghèo. Tính chung trong 3 năm (1996 -1999) tốc độ tăng thu nhập hàng năm của hộ nghèo là 7,2%, hộ giàu là 14,5% (chưa loại trừ trượt giá). Bởi vậy khoảng cách chênh lệch giàu nghèo ngày càng có xu hướng doãng ra.

Để thấy rõ vấn đề trên, với cách phân chia số hộ điều tra thành 5 nhóm thu nhập từ thấp đến cao với số hộ bằng nhau theo thông lệ quốc tế (số hộ mỗi nhóm đều chiếm 20%) thì mức độ chênh giữa nhóm giàu (nhóm 5) với nhóm nghèo (nhóm 1) ở từng khu vực, từng vùng cụ thể như sau:

Đơn vị tính: lần


  1994 1995 1996 1999

CẢ NƯỚC

6,5 7,0 7,3 8,9
1. Chia theo khu vực
– Thành thị 7,0 7,7 8,0 9,8
– Nông thôn 5,4 5,8 6,1 6,3
2. Chia theo vùng
– Tây Bắc và Đông Bắc 5,2 5,7 6,1 6,8
– Đồng bằng sông Hồng 5,6 6,1 6,6 7,0
– Bắc Trung Bộ 5,2 5,7 5,9 6,9
– Duyên hải Nam Trung Bộ 4,9 5,5 5,7 6,3
– Tây Nguyên 10,1 12,7 12,8 12,9
– Đông Nam Bộ 7,4 7,6 7,9 10,3
– Đồng bằng sông Cửu Long 6,1 6,4 6,4 7,9

Như vậy số liệu trên cho thấy hệ số chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo năm 1999 đều tăng; so với năm 1996, tính chung cả nước tăng 1,6 lần; thành thị tăng 1,8 lần, nông thôn tăng 0,2 lần; các vùng đều tăng trong đó tăng nhanh là vùng Đông Nam Bộ 2,4 lần, Đồng bằng sông Cửu Long 1,5 lần,  tăng thấp nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng 0,4 lần. Đáng chú ý là vùng Tây Nguyên từ năm 1995 đến năm 1999 mức chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo mỗi năm tăng không đáng kể (0,1 lần); nguyên nhân chủ yếu do cà phê sụt giá liên tiếp, kéo theo thu nhập của hộ nông dân bị ảnh hưởng.

Để nghiên cứu sâu hơn mức độ chênh lệch thu nhập trong các hộ dân cư có thể tiến hành phân tổ số hộ điều tra theo nhóm hộ bằng nhau với tỷ lệ nhỏ hơn mức nêu trên gồm 10%; 5%; 2% số hộ giàu và số hộ nghèo để so sánh, cụ thể như sau:

So sánh 10% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 10% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch cao hơn so với 20% số hộ nêu trên: năm 1996: 10,6 lần; 1999: 12 lần; vùng có mức chênh lệch lớn hơn  vùng khác là Tây Nguyên 1996: 13,2 lần; 1999: 15,1 lần;  Đông Nam Bộ 1996: 11,8 lần; 1999: 13,4 lần, Đồng bằng sông Cửu Long 1996: 9,2 lần; 1999: 10,4 lần.

So sánh 5% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 5% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch cao hơn so với 10% số hộ nêu trên năm 1996: 15,1 lần; 1999: 17,1 lần; vùng có mức chênh lệch lớn là Đông Nam Bộ 1996: 18,9 lần; 1999: 21,3 lần; Tây Nguyên 1996: 17,4 lần; 1999: 18,5 lần, Đồng bằng sông Cửu Long 1996: 14,8 lần; 1999: 16,6 lần, Đồng bằng sông Hồng 1996: 10,9 lần; 1999: 13,1 lần.

So sánh 2% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 2% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch cao hơn so với 5% số hộ nêu trên: Năm 1996: 27,2 lần; 1999: 29,4lần; vùng có mức chênh lệch lớn là Tây Nguyên 1996: 37,8 lần; 1999: 39,3 lần, Đông Nam Bộ 1996: 34,6 lần; 1999: 37,2 lần, Đồng bằng sông Cửu Long 1996: 29,5 lần; 1999: 32,4 lần; Đồng bằng sông Hồng 1996: 18,8 lần; 1999: 21,1 lần .

Nhằm phục vụ đánh giá, phân tích sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo các tổ chức quốc tế và nhiều nước đã sử dụng hệ số GiNi* và tính tỷ lệ thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp trong tổng số thu nhập của toàn bộ dân cư.

– Hệ số GiNi nhận giá trị từ 0 đến 1 và tăng cùng với sự bất bình đẳng. Với giá trị bằng 0 biểu thị sự bình đẳng tuyệt đối và với giá trị bằng 1 biểu thị sự bất bình đẳng tuyệt đối. Kết quả số liệu điều tra Đời sống- Kinh tế hộ gia đình năm 1999 ở nước ta cho thấy: Hệ số GiNI  tính chung cả nước từ 0,367 năm 1996 tăng lên 0,390 năm 1999. Như vậy sự bất bình đẳng đã tăng nhưng không nhiều. Hệ số GiNi của thành thị là 0,381; 0,406 và nông thôn là 0,330; 0,335 tương ứng với các năm nói trên, sự bất bình đẳng ở khu vực thành thị diễn ra nhanh hơn nông thôn. Vùng Đông Nam Bộ có sự bất bình đẳng nhiều hơn các vùng khác.

– Tỷ lệ thu nhập của 40% số hộ có mức thu nhập thấp nhất trong tổng thu nhập của toàn bộ dân cư nếu: Dưới 12% được coi là bất bình đẳng cao; Từ 12-17% được coi là bất bình đẳng vừa; trên 17% được coi là tương đối bình đẳng (Trích trang 68 trong cuốn sách Welfare Indicators- 1996 ; các chỉ tiêu về phúc lợi của cơ quan Thống kê Inđônêxia).Cũng theo kết quả số liệu điều tra nói trên, ở nước ta tỷ lệ thu nhập của 40% số hộ có mức thu nhập thấp nhất chiếm trong tổng thu nhập của các hộ điều tra năm 1996: 20,9%; 1999: 18,69%. So sánh với tiêu chuẩn trên thì sự phân bố thu nhập trong dân cư còn ở mức tương đối bình đẳng.

Tóm lại thu nhập năm 1999 của dân cư tăng, tuy về tốc độ có chậm hơn năm trước và mức độ phân hoá giàu nghèo vẫn có xu hướng gia tăng nhưng nhìn chung đời sống của dân cư có chuyển biến tiến bộ rõ rệt. Theo ý kiến tự đánh giá về đời sống năm 1999 của hơn 2,5 vạn hộ điều tra ở 61 tỉnh, TP cho thấy có 77,8% ý kiến trả lời khá hơn, 16,7% ý kiến trả lời vẫn giữ mức như trước và chỉ có 5,5% ý kiến trả lời kém hơn so với năm 1996.

Điều đó khẳng định rằng mặc dù năm qua chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng có đường lối đúng, có nhiều biện pháp chỉ đạo hiệu quả nên đời sống, kinh tế – xã hội nước ta tiếp tục phát triển và ổn định.

* Hệ số GINI phản ảnh mối quan hệ giữa thu (hoặc chỉ tiêu) và các nhóm dân cư bằng nhau

  Hệ số GINI của Thái Lan 1988: 0,479; Inđônêxia 1996: 0,356