BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

Kinh tế – xã hội nước ta 9 tháng năm 2020 diễn ra trong bối cảnh dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19) bùng phát mạnh trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới. Các nền kinh tế lớn đối mặt với tình trạng suy thoái sâu, tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua. Tuy nhiên, đến thời điểm giữa tháng 9, khi các nền kinh tế tái khởi động sau phong tỏa do dịch Covid-19, dự báo về tăng trưởng kinh tế thế giới có những dấu hiệu khả quan hơn[1]. Thương mại toàn cầu, giá cả hàng hóa đang dần được phục hồi, thị trường chứng khoán toàn cầu đã cho thấy mức tăng cao nhờ sự nới lỏng của các ngân hàng trung ương và dần mở cửa trở lại của một số nền kinh tế. Dòng vốn vào các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển tiếp tục nới lỏng, lạm phát duy trì ở mức thấp[2]. Những nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Cộng đồng chung châu Âu tuy vẫn đối mặt với nhiều khó khăn nhưng dự báo sẽ có tăng trưởng khả quan hơn trong những tháng cuối năm 2020 và năm 2021. Riêng nền kinh tế Trung Quốc từ mức tăng trưởng âm trong quý I đã phục hồi lên mức tăng trưởng dương trong quý II và quý III năm 2020[3]. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tăng trưởng tích cực năm 2019, kinh tế vĩ mô ổn định nhưng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Dịch Covid-19
diễn biến phức tạp, khó lường làm tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực chậm lại. Tình hình đứt gãy thương mại quốc tế gây ra những hệ lụy tới hoạt động sản xuất và xuất, nhập khẩu của Việt Nam. Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức cao. Bên cạnh đó, hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra sớm ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng.

Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp vừa phòng chống dịch, bảo đảm sức khỏe người dân, vừa phòng chống suy giảm kinh tế và giữ vững ổn định xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2020. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý III và 9 tháng năm 2020 như sau:

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ

1. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2020 ước tính tăng 2,12% so với cùng kỳ năm trước, tuy là mức tăng thấp nhất của 9 tháng các năm trong giai đoạn 2011-2020 nhưng trong bối cảnh dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới thì đây là một thành công lớn của nước ta trong việc phòng chống dịch bệnh, khôi phục và phát triển kinh tế.

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2020 ước tính tăng 2,62% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất của quý III các năm trong giai đoạn 2011-2020[4]. Dịch Covid-19 được kiểm soát chặt chẽ, nền kinh tế từng bước hoạt động trở lại trong điều kiện bình thường mới nên GDP quý III/2020 tăng trưởng khởi sắc so với quý II/2020, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,93%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,95%; khu vực dịch vụ tăng 2,75%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,70%. Về sử dụng GDP quý III năm nay, tiêu dùng cuối cùng tăng 1,19% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 5,79%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 2,86%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 1,88%.

GDP 9 tháng năm 2020 tăng 2,12% (Quý I tăng 3,68%; quý II tăng 0,39%; quý III tăng 2,62%), là mức tăng thấp nhất của 9 tháng các năm trong giai đoạn 2011-2020[5]. Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội, nền kinh tế nước ta tiếp tục duy trì tăng trưởng dương cho thấy tính đúng đắn trong chỉ đạo, điều hành khôi phục kinh tế, phòng chống dịch bệnh và sự quyết tâm, đồng lòng của toàn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự nỗ lực, cố gắng của người dân và cộng đồng doanh nghiệp để thực hiện có hiệu quả mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã hội”. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,84%, đóng góp 13,62% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,08%, đóng góp 58,35%; khu vực dịch vụ tăng 1,37%, đóng góp 28,03%.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2020 tăng thấp so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, dịch Covid-19 và dịch tả lợn châu Phi. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 1,65%, chỉ cao hơn mức tăng 0,02% và 0,91% của 9 tháng năm 2016 và năm 2019 trong giai đoạn 2011-2020[6], đóng góp 0,19 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 2,02% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,01 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,44%, cao hơn mức tăng 2,11% và 1,81% của 9 tháng năm 2015 và năm 2016 trong giai đoạn 2011-2020[7], đóng góp 0,08 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp 9 tháng năm 2020 tăng 2,69% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ các năm 2011-2020[8], đóng góp 0,91 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,6%, thấp hơn mức tăng của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2020[9], đóng góp 1,02 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 5,35%, làm giảm 0,32 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế do sản lượng dầu thô khai thác giảm 14,1% và khí đốt tự nhiên giảm 9,1%. Ngành xây dựng tăng 5,02%, cao hơn mức giảm 0,01% và tăng 2,78% của 9 tháng năm 2011 và năm 2012 trong giai đoạn 2011-2020[10], đóng góp 0,33 điểm phần trăm.

Trong những tháng đầu năm 2020, dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Khu vực dịch vụ trong 9 tháng đạt mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm 2011-2020[11]. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của 9 tháng như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 4,98% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,54 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,68%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 4%, làm giảm 0,14 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 17,03%, làm giảm 0,76 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,05%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,16%; khu vực dịch vụ chiếm 42,73%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,06% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2019 là: 13,21%; 33,97%; 42,75%; 10,07%).

Về sử dụng GDP 9 tháng năm 2020, tiêu dùng cuối cùng tăng 0,86% so với cùng kỳ năm 2019; tích lũy tài sản tăng 3,39%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 0,9%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 1,25%.

2 .Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2020 gặp nhiều khó khăn do tác động của hạn hán, xâm nhập mặn; dịch tả lợn châu Phi; dịch Covid-19 trên thế giới diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng đến sản xuất và hoạt động xuất, nhập khẩu nông sản. Trước những khó khăn đó, ngành Nông nghiệp đã có nhiều giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả nên kết quả sản xuất đạt khá, lúa đông xuân và hè thu được mùa, được giá; sản lượng các loại cây lâu năm có mức tăng trưởng khá; chăn nuôi gia cầm phát triển tốt; đàn lợn đang dần khôi phục; xuất khẩu tôm bước đầu khởi sắc. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đã thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế trong lúc khó khăn, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch.

a) Nông nghiệp

Nhờ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, gieo trồng giống lúa mới cho giá trị kinh tế cao nên năng suất lúa đông xuân của cả nước năm nay đạt 66,4 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2019. Sản lượng lúa đông xuân đạt 19,9 triệu tấn, giảm 593,5 nghìn tấn so với vụ đông xuân năm trước do diện tích gieo trồng năm nay đạt 3.024,1 nghìn ha, giảm 3,2%, trong đó có 30,6 nghìn ha lúa bị thiệt hại bởi hạn hán và nhiễm mặn nên diện tích thu hoạch lúa đông xuân chỉ đạt 2.993,5 nghìn ha, giảm 130,6 nghìn ha so với năm trước.

Tính đến trung tuần tháng Chín, diện tích gieo cấy lúa mùa cả nước đạt 1.512,6 nghìn ha, bằng 97,1% cùng kỳ năm trước. Vụ lúa hè thu năm nay cả nước gieo cấy được 1.944,8 nghìn ha, giảm 64,8 nghìn ha so với vụ hè thu năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.523,9 nghìn ha, giảm 45,2 nghìn ha. Tính đến ngày 15/9/2020, các địa phương đã thu hoạch được 1.618,7 nghìn ha lúa hè thu, chiếm 83,2% diện tích gieo cấy và bằng 91,7% cùng kỳ năm trước; năng suất lúa hè thu cả nước năm nay ước tính đạt 55,7 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha so với vụ hè thu năm 2019 nhưng do diện tích gieo cấy giảm nên sản lượng chung toàn vụ hè thu 2020 ước tính đạt 10,83 triệu tấn, giảm 119,3 nghìn tấn.

Tính đến giữa tháng Chín, cả nước gieo trồng được 909,4 nghìn ha ngô, bằng 97% cùng kỳ năm trước; 101,6 nghìn ha khoai lang, bằng 92,2%; 163,4 nghìn ha lạc, bằng 95,2%; 41 nghìn ha đậu tương, bằng 90,1%; 992,4 nghìn ha rau, đậu, bằng 100,4%.

Sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm và sản lượng thu hoạch một số cây ăn quả chủ yếu 9 tháng tăng so với cùng kỳ năm trước: Sản lượng điều ước tính đạt 333,8 nghìn tấn, tăng 17,8%; cao su đạt 840,8 nghìn tấn, tăng 5,7%; hồ tiêu đạt 268,3 nghìn tấn, tăng 1,8%; xoài đạt 798,5 nghìn tấn, tăng 5,5%; thanh long đạt 799,2 nghìn tấn, tăng 8,4%; cam đạt 526,5 nghìn tấn, tăng 4,4%; bưởi đạt 523,1 nghìn tấn, tăng 7%…

Đàn trâu cả nước trong tháng Chín tiếp tục giảm 2,2% so với cùng thời điểm năm 2019 do hiệu quả kinh tế không cao; đàn bò phát triển khá với mức tăng 2,5%. Dịch tả lợn châu Phi cơ bản được kiểm soát, đàn lợn đang dần khôi phục nhưng việc tái đàn vẫn còn chậm, ước tính tổng số lợn của cả nước tháng 9/2020 tăng 3,6% so với cùng thời điểm năm 2019; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 9 tháng ước tính đạt 2.483,1 nghìn tấn, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm 2019. Tổng đàn và sản lượng gia cầm tiếp tục tăng do khu vực hộ mở rộng quy mô chăn nuôi và khu vực doanh nghiệp phát triển tốt. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tháng 9/2020 tăng 5,7% so với cùng thời điểm năm 2019; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 9 tháng đạt 1.056,7 nghìn tấn, tăng 11,4%; sản lượng trứng gia cầm đạt 10,7 tỷ quả, tăng 10,8%.

Tính đến ngày 23/9/2020, cả nước không còn dịch tai xanh. Một số loại dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các địa phương: Dịch cúm gia cầm ở Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Ngãi, Vĩnh Long, Cà Mau; dịch lở mồm long móng ở Cao Bằng, Quảng Trị, Kon Tum, Đắk Lắk, Đồng Nai và dịch tả lợn châu Phi còn ở 251 xã thuộc 92 huyện của 27 địa phương[12].

b) Lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng tập trung 9 tháng năm 2020 ước tính đạt 169,5 nghìn ha, giảm 2,6% so với cùng kỳ năm trước (quý III đạt 63,2 nghìn ha, giảm 6,9%); số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 66,5 triệu cây, giảm 1,3% (quý III đạt 22 triệu cây, tăng 0,5%); sản lượng gỗ khai thác đạt 12.050 nghìn m3, tăng 1,8% (quý III đạt 4.529 nghìn m3, tăng 1,5%); sản lượng củi khai thác đạt 14,4 triệu ste, giảm 0,3% (quý III đạt 4,6 triệu ste, tăng 0,9%).

Diện tích rừng bị thiệt hại 9 tháng năm nay là 1.291 ha, giảm 60,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 603,7 ha, giảm 78,2%; diện tích rừng bị chặt, phá là 687,3 ha, tăng 45,1%.

c) Thủy sản

Tổng sản lượng thủy sản 9 tháng năm nay ước tính đạt 6.131,6 nghìn tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước (quý III đạt 2.261,6 nghìn tấn, tăng 1,4%), bao gồm: Cá đạt 4.424 nghìn tấn, tăng 0,9%; tôm đạt 769,4 nghìn tấn, tăng 5%; thủy sản khác đạt 938,2 nghìn tấn, tăng 2,6%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng 9 tháng ước tính đạt 3.218 nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước (quý III đạt 1.242,9 nghìn tấn, tăng 0,9%), trong đó cá đạt 2.229,2 nghìn tấn, giảm 0,4%; tôm đạt 640,9 nghìn tấn, tăng 5,8%. Sản lượng tôm sú 9 tháng ước tính đạt 204,7 nghìn tấn, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước (quý III đạt 86 nghìn tấn, tương đương cùng kỳ năm trước); sản lượng tôm thẻ chân trắng 9 tháng ước tính đạt 398,2 nghìn tấn, tăng 7,8% (quý III đạt 197,7 nghìn tấn, tăng 9%).

Sản lượng thủy sản khai thác 9 tháng ước tính đạt 2.913,6 nghìn tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước (quý III ước tính đạt 1.018,7 nghìn tấn, tăng 2%), trong đó cá đạt 2.194,8 nghìn tấn, tăng 2,2%; tôm đạt 128,5 nghìn tấn, tăng 1,3%.

3. Do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 nên tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý III/2020 chỉ đạt 2,34% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 2,69%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,6% và là mức tăng thấp nhất của 9 tháng các năm 2011-2020. Tuy nhiên do dịch bệnh được kiểm soát tốt, các lĩnh vực của nền kinh tế đang bước vào trạng thái hoạt động trong điều kiện bình thường mới, sản xuất công nghiệp tháng 9/2020 đã có sự khởi sắc, mở ra hy vọng sẽ sớm phục hồi và tăng trưởng trở lại trong những tháng cuối năm.

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2020 ước tính tăng 2,69% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 5,1%; quý II tăng 1,1%; quý III tăng 2,34%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,7%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,4%; ngành khai khoáng giảm 5,35% do sản lượng khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm mạnh.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,5%). Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/9/2020 tăng 24,3% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2019 tăng 17,2%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 9 tháng năm nay khá cao với 75,6% (cùng kỳ năm trước là 72,1%).

4. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động 9 tháng năm 2020 đạt 133,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2020 với 81% doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn.

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[13]

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và trùng vào tháng Bảy âm lịch nên trong tháng 9/2020 cả nước có 10,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 203,3 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 83 nghìn lao động, giảm 23,1% về số doanh nghiệp, giảm 29,6% về vốn đăng ký và giảm 13,8% về số lao động so với tháng trước[14]. Tính chung 9 tháng, cả nước có gần 99 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.428,5 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 777,9 nghìn lao động, giảm 3,2% về số doanh nghiệp, tăng 10,7% về vốn đăng ký và giảm 16,3% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng đạt 14,4 tỷ đồng, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 2.173,4 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 29,5 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 9 tháng năm nay là 3.601,9 nghìn tỷ đồng, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 34,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 25,5% so với 9 tháng năm 2019, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 9 tháng lên 133,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước.

Trong 9 tháng, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 38,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 81,8% so với cùng kỳ năm trước; 27,6 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 2,4%; gần 12,1 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 0,1%; 36,5 nghìn doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 39,6%.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2020 cho thấy: Có 32,2% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2020 tốt hơn quý II/2020; 31,9% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 35,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định[15]. Dự kiến quý IV/2020 so với quý III/2020, có 45,6% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 19% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 35,4% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.

5 .Hoạt động thương mại, vận tải trong nước tháng Chín có dấu hiệu tăng trở lại. Tuy nhiên, khách quốc tế đến nước ta tiếp tục đạt thấp do Việt Nam thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 chưa mở cửa đón khách du lịch quốc tế. Tính chung 9 tháng năm 2020, khách quốc tế đến nước ta đạt gần 3,8 triệu lượt người, giảm 70,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó hơn 97% là khách quốc tế đến trong quý I/2020[16].

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín ước tính đạt 441,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 3.673,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 3,6%, trong đó quý III ước tính đạt 1.305,8 nghìn tỷ đồng, tăng 14,4% so với quý trước và tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng đạt 2.907,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 79,1% tổng mức và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 369,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng mức và giảm 15%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 14,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,4% tổng mức và giảm 56,3%; doanh thu dịch vụ khác đạt 383 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,4% tổng mức và giảm 5,6%.

Hoạt động vận tải tháng Chín có những tín hiệu tích cực hơn với mức tăng 6,8% lượng hành khách vận chuyển và tăng 4,5% lượng hàng hóa vận chuyển so với tháng trước. Tính chung 9 tháng, vận tải hành khách đạt 2.625,8 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 29,6% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 119,4 tỷ lượt khách.km, giảm 35,2% (quý III đạt 815,3 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 34% và luân chuyển 35,8 tỷ lượt khách.km, giảm 42,1%). Vận tải hàng hóa 9 tháng đạt 1.264,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 242,5 tỷ tấn.km, giảm 8,2% (quý III đạt 454,2 triệu tấn hàng hóa, giảm 6,4% và luân chuyển 82,6 tỷ tấn.km, giảm 10,4%). Vận tải hành khách và hàng hóa của tất cả các ngành đường 9 tháng năm 2020 đều giảm do dịch Covid-19, trong đó hàng không là ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất với mức giảm 45,5% về lượng hành khách và 39,4% về lượng hàng hóa vận chuyển.

Doanh thu hoạt động viễn thông 9 tháng năm 2020 đạt 278,2 nghìn tỷ đồng, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,1%). Tính đến cuối tháng 9/2020, tổng số thuê bao điện thoại ước tính đạt 130,4 triệu thuê bao, giảm 2% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó thuê bao di động đạt 127,1 triệu thuê bao, giảm 1,8%; số thuê bao truy cập internet băng rộng cố định đạt 16,1 triệu thuê bao, tăng 12,8%.

Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Chín ước tính đạt 13,8 nghìn lượt người[17], giảm 15,5% so với tháng trước và giảm 99,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2020, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 3.788,5 nghìn lượt người, giảm 70,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 3.056,9 nghìn lượt người, chiếm 80,7% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 70%; bằng đường bộ đạt 587 nghìn lượt người, giảm 76,4%; bằng đường biển đạt 144,6 nghìn lượt người, giảm 23,8%. Khách đến từ châu Á đạt 2.770,2 nghìn lượt người, chiếm 73,1% tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 72,7% so với cùng kỳ năm trước; khách đến từ châu Âu đạt 668,3 nghìn lượt người, giảm 58,6%; khách đến từ châu Mỹ ước tính đạt 235,2 nghìn lượt người, giảm 68,1%; khách đến từ châu Úc đạt 102,6 nghìn lượt người, giảm 68,9%; khách đến từ châu Phi đạt 12,2 nghìn lượt người, giảm 64,5%.

6. Do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, tăng trưởng tín dụng tính đến thời điểm 22/9/2020 đạt mức thấp 5,12%. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh lãi suất điều hành nhằm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng trưởng khá, đảm bảo quyền lợi người tham gia bảo hiểm. Tổng mức huy động vốn trên thị trường chứng khoán cho nền kinh tế 9 tháng năm 2020 tăng 1,43% so với cùng kỳ năm trước.

Tính đến thời điểm 22/9/2020, tổng phương tiện thanh toán tăng 7,74% so với cuối năm 2019 (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,41%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 7,7% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,79%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 5,12% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,51%).

Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường 9 tháng năm 2020 ước tính tăng 14% so với cùng kỳ năm trước (quý III/2020 tăng 12%), trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 17%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 7%.

Trong tháng Chín, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có tín hiệu phục hồi nhờ kiểm soát tốt dịch Covid-19 và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từng bước trở lại trạng thái bình thường. Tính chung 9 tháng, tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán ước tính đạt 228,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1,43% so với cùng kỳ năm trước. Trên thị trường cổ phiếu, tính đến sáng ngày 24/9/2020, chỉ số VNIndex đạt 912,5 điểm, tăng 3,5% so với cuối tháng trước và giảm 5% so với cuối năm 2019; mức vốn hóa thị trường tính đến ngày 18/9/2020 đạt 4.263 nghìn tỷ đồng, giảm 2,8% so với cuối năm 2019; giá trị giao dịch bình quân 9 tháng trên thị trường đạt 5.835 tỷ đồng/phiên, tăng 25,3% so với bình quân năm 2019. Trên thị trường trái phiếu, hiện có 496 mã trái phiếu niêm yết với giá trị niêm yết đạt 1.272 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với cuối năm 2019. Trên thị trường chứng khoán phái sinh, khối lượng giao dịch bình quân từ đầu năm đến nay đạt 170.348 hợp đồng/phiên, tăng 92% so với bình quân năm trước.

7. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 9 tháng năm 2020 tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2019, mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020 do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Chín và 9 tháng đều đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020[18] là kết quả đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, nhằm duy trì đà tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát tốt tại Việt Nam.

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành 9 tháng ước tính đạt 1.445,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước và bằng 34,7% GDP (quý III/2020 đạt 597,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,4%), bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 484,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 33,5% tổng vốn và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 641,5 nghìn tỷ đồng, bằng 44,4% và tăng 2,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 319,1 nghìn tỷ đồng, bằng 22,1% và giảm 2,5%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/9/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 21,2 tỷ USD, giảm 18,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 1.947 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 10,4 tỷ USD, giảm 29,4% về số dự án và giảm 5,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 798 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt trên 5,1 tỷ USD, tăng 6,8%; có 5.172 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 5,7 tỷ USD, giảm 44,9%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 1.296 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 2,1 tỷ USD và 3.876 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 3,6 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 9 tháng ước tính đạt gần 13,8 tỷ USD, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước.

8. Dịch Covid-19 tiếp tục được kiểm soát trên phạm vi cả nước, một số địa phương trong vùng dịch nới lỏng biện pháp giãn cách xã hội, từng bước khôi phục trở lại các hoạt động kinh tế đã tác động đến kết quả thu, chi ngân sách Nhà nước trong tháng 9/2020.

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2020 ước tính đạt 902,5 nghìn tỷ đồng, bằng 59,7% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 747,3 nghìn tỷ đồng, bằng 59,1%; thu từ dầu thô 26,3 nghìn tỷ đồng, bằng 74,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 128 nghìn tỷ đồng, bằng 61,6%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2020 ước tính đạt 1.036,4 nghìn tỷ đồng, bằng 59,3% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 716,3 nghìn tỷ đồng, bằng 67,8%; chi đầu tư phát triển 235,3 nghìn tỷ đồng, bằng 50%; chi trả nợ lãi 78,4 nghìn tỷ đồng, bằng 66,3%.

9. Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên thế giới làm đứt gãy thương mại quốc tế, hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vẫn giữ được mức tăng dương, trong đó nổi lên vai trò của khu vực kinh tế trong nước. Tính chung 9 tháng năm nay, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 388,73 tỷ USD, tăng 1,8%; trong đó xuất khẩu đạt 202,86 tỷ USD, tăng 4,2%. Khu vực kinh tế trong nước có giá trị kim ngạch xuất khẩu 9 tháng tăng cao 20,2%, nhập khẩu tăng 4,7%. Cán cân thương mại 9 tháng tiếp tục xuất siêu với mức 16,99 tỷ USD.

a) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[19]

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 9/2020 ước tính đạt 27,5 tỷ USD, giảm 0,7% so với tháng trước. Trong quý III/2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 80,07 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước và tăng 34% so với quý II năm 2020 (tăng 26,6% so với quý I); có 10 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 74,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tính chung 9 tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 202,86 tỷ USD, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước tiếp tục là động lực tăng trưởng xuất khẩu cả nước khi đạt 71,83 tỷ USD, tăng mạnh 20,2%, chiếm 35,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 131,03 tỷ USD, giảm 2,9%, chiếm 64,6%; có 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 91,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 59,8%).

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 9/2020 ước tính đạt 24 tỷ USD, tăng 5,6% so với tháng trước. Trong quý III/2020, kim ngạch nhập khẩu đạt 68,54 tỷ USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước và tăng 18,5% so với quý II năm 2020 (tăng 15,2% so với quý I); có 14 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 73,4% tổng trị giá nhập khẩu. Tính chung 9 tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 185,87 tỷ USD, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 82,35 tỷ USD, tăng 4,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 103,52 tỷ USD, giảm 4,8%; có 32 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 88,3% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Tám xuất siêu 5 tỷ USD[20]; 8 tháng xuất siêu 13,5 tỷ USD; tháng Chín ước tính xuất siêu 3,5 tỷ USD. Tính chung 9 tháng năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục xuất siêu 16,99 tỷ USD[21] (cùng kỳ năm trước xuất siêu 7,27 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 10,52 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 27,51 tỷ USD.

b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Trong 9 tháng năm 2020, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 5,47 tỷ USD, giảm 62,3% so với cùng kỳ năm trước (quý III đạt 787 triệu USD, giảm 84,2%), trong đó dịch vụ du lịch đạt 2,5 tỷ USD (chiếm 45,1% tổng kim ngạch), giảm 70,9%; dịch vụ vận tải đạt 665 triệu USD (chiếm 12,2%), giảm 79,6%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 9 tháng năm nay ước tính đạt 13,63 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm trước (quý III đạt 4,6 tỷ USD, giảm 16,3%), trong đó dịch vụ vận tải đạt 5,9 tỷ USD (chiếm 43,3% tổng kim ngạch), giảm 0,3%; dịch vụ du lịch đạt 3,2 tỷ USD (chiếm 23,6%), giảm 33,4%. Nhập siêu dịch vụ trong 9 tháng năm 2020 là 8,16 tỷ USD, bằng 149,2% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.

10. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2020 tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 0,01% so với tháng 12 năm trước – đều là mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020[22], chủ yếu do giá dịch vụ giáo dục được điều chỉnh tăng theo lộ trình nhằm tiệm cận với giá thị trường, giá điện sinh hoạt tăng do nhu cầu sử dụng điện trong thời tiết nắng nóng; giá gạo trong nước tăng do giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ở mức cao nhất kể từ năm 2011. Bình quân 9 tháng năm 2020, chỉ số giá tiêu dùng tăng 3,85% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ giá thương mại hàng hóa bình quân 9 tháng giảm 0,72% so với cùng kỳ năm 2019 phản ánh giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài không thuận lợi so với giá nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về Việt Nam.

a) Chỉ số giá tiêu dùng

Trong mức tăng 0,12% của CPI tháng 9/2020 so với tháng trước, có 6/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chủ yếu có chỉ số giá tăng, trong đó nhóm giáo dục tăng cao nhất. CPI quý III/2020 tăng 0,92% so với quý trước và tăng 3,18% so với cùng kỳ năm 2019. CPI bình quân 9 tháng năm 2020 tăng 3,85% so với bình quân cùng kỳ năm 2019. Lạm phát cơ bản bình quân 9 tháng năm 2020 tăng 2,59% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.

b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới. Giá vàng giảm do các nhà đầu tư bán ra chốt lãi sau thời gian giá vàng tăng mạnh, nền kinh tế Mỹ phục hồi tốt hơn so với các dự đoán sau khi bị ảnh hưởng của dịch Covid-19 và chỉ số đồng USD tăng lên so với các đồng tiền chủ chốt trên thị trường thế giới. Chỉ số giá vàng tháng 9/2020 giảm 0,33% so với tháng trước; tăng 32,37% so với tháng 12/2019 và tăng 30,33% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2020 giảm 0,05% so với tháng trước; tăng 0,12% so với tháng 12/2019 và giảm 0,17% so với cùng kỳ năm 2019.

c) Chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá xuất, nhập khẩu

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III/2020 tăng 1,43% so với quý trước và tăng 10,99% so với cùng kỳ năm trước; tương tự, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 0,81% và giảm 0,95%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 1,12% và giảm 1,51%. Tính chung 9 tháng năm 2020, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 8,41% so với cùng kỳ năm 2019; chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp giảm 0,54%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ giảm 0,58%.

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý III/2020 tăng 0,17% so với quý trước và giảm 1,55% so với cùng kỳ năm trước; tương tự, chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá tăng 0,03% và giảm 0,95%. Tỷ giá thương mại hàng hóa[23] quý III/2020 tăng 0,14% so với quý trước và giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá giảm 1,33% so với cùng kỳ năm 2019; chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá giảm 0,62%; tỷ giá thương mại hàng hoá giảm 0,72%.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1 .Mặc dù 9 tháng năm nay chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực từ dịch Covid-19 nhưng nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành và sự nỗ lực của nhân dân nên nhìn chung đời sống dân cư cả nước giữ ổn định; công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện.

Trong tháng Chín và quý III năm nay không có địa phương nào phát sinh thiếu đói. Tính chung 9 tháng năm 2020, cả nước có 16,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, tương ứng với 66,5 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 75,5% về số lượt hộ thiếu đói và giảm 75,6% về số lượt nhân khẩu thiếu đói so với cùng kỳ năm trước. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 733,6 tấn gạo.

Công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Theo báo cáo sơ bộ, tổng các suất quà trao tặng cho các đối tượng chính sách, người có công, các đối tượng bảo trợ xã hội trong 9 tháng năm 2020 là hơn 9,4 nghìn tỷ đồng, bao gồm hơn 3,5 nghìn tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 2,7 nghìn tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo, hộ cận nghèo và 3,2 nghìn tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. Bên cạnh đó, có hơn 24 triệu thẻ bảo hiểm y tế, sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát tặng cho các đối tượng chính sách trên địa bàn cả nước.Tính đến ngày 15/9/2020, cả nước giải ngân được hơn 12,5 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.

2. Công tác giáo dục, đào tạo bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, tuy nhiên ngành Giáo dục đã kịp thời đưa ra các phương án ứng phó; những chỉ đạo, hướng dẫn phù hợp để vừa đảm bảo an toàn cho học sinh, giáo viên, vừa thực hiện kế hoạch năm học.

Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia năm 2020 tổ chức muộn hơn so với mọi năm và được tổ chức thành 2 đợt. Số thí sinh đăng ký dự thi là 900,1 nghìn người, trong đó có 26.014 thí sinh của 27 địa phương tham dự kỳ thi vào đợt 2.

Tại thời điểm khai giảng năm học 2020-2021, cả nước có 5,4 triệu trẻ em đi học mầm non (776,9 nghìn trẻ em đi nhà trẻ và hơn 4,6 triệu trẻ em đi học mẫu giáo); hơn 17,5 triệu học sinh phổ thông đến trường, bao gồm 8,7 triệu học sinh tiểu học; hơn 6 triệu học sinh trung học cơ sở và 2,8 triệu học sinh trung học phổ thông. Tính chung 9 tháng, đào tạo nghề đã tuyển mới được gần 1,4 triệu người, trong đó trình độ cao đẳng, trung cấp tuyển sinh được 300 nghìn người; trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác tuyển sinh được 1.065 nghìn người.

3. Dịch Covid-19 trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Tại Việt Nam, tình hình dịch cơ bản được kiểm soát và chuyển sang trạng thái bình thường mới, tiếp tục chuỗi ngày không ghi nhận ca mắc mới Covid-19 trong cộng đồng[24].

Trong 9 tháng năm 2020, cả nước có 65.046 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (7 trường hợp tử vong); 28.462 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 404 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (9 trường hợp tử vong); 11 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu và 2.924 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 247 trường hợp dương tính; 198 trường hợp dương tính với bạch hầu (4 trường hợp tử vong).

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/9/2020 là 210.754 người; số người đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 97.066 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 99.019 người.

Về ngộ độc thực phẩm, tính chung 9 tháng năm 2020, cả nước xảy ra 65 vụ với 1.667 người bị ngộ độc (21 người tử vong).

4. Do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, một số hoạt động văn hóa, thể thao không tổ chức hoặc lùi ngày tổ chức; hoạt động thư viện có nhiều đổi mới nhằm duy trì việc cung cấp thông tin cho người dân.

Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được các địa phương rất quan tâm và thực hiện, nhiều di tích văn hóa lịch sử được đầu tư tu bổ, tôn tạo gắn với khai thác, phát triển du lịch. Hoạt động thư viện có nhiều đổi mới, tích cực, chủ động, sáng tạo, triển khai các dịch vụ mới, đẩy mạnh việc cung cấp các dịch vụ từ xa, dịch vụ trực tuyến nhằm thu hút độc giả sử dụng các dịch vụ của thư viện trong thời gian ảnh hưởng của dịch Covid-19.

Tính chung 9 tháng trong nước đã tổ chức được 11 giải thể thao và 10 lớp tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cộng tác viên, hướng dẫn viên thể dục thể thao. Công tác chuẩn bị cho 2 Đại hội thể thao lớn là Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 (SEA Games 31) và Đại hội Thể thao Người khuyết tật lần thứ 11 (ASEAN Para Games 11) sẽ diễn ra tại Việt Nam năm 2021 đang tích cực được triển khai trên tinh thần quyết liệt, khẩn trương để mọi khâu tổ chức đảm bảo hoàn thành đúng hạn.

5. Tình hình tai nạn giao thông trong 9 tháng giảm trên cả 3 tiêu chí do hiệu quả của Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

Trong 9 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 10.354 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 5.980 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 4.374 vụ va chạm giao thông, làm 4.876 người chết, 3.127 người bị thương và 4.482 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 9 tháng giảm 18,3% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 11%; số vụ va chạm giao thông giảm 26,6%); số người chết giảm 13,8%; số người bị thương giảm 13,9% và số người bị thương nhẹ giảm 25,1%. Bình quân 1 ngày trong 9 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 38 vụ tai nạn giao thông, gồm 22 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 16 vụ va chạm giao thông, làm 18 người chết, 11 người bị thương và 16 người bị thương nhẹ.

6. Thiên tai, ô nhiễm môi trường và cháy, nổ ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người dân ở một số địa phương.

Theo báo cáo sơ bộ từ các địa phương, thiên tai trong 9 tháng năm 2020 làm 96 người chết và mất tích; 292 người bị thương; 142,6 nghìn ha lúa và 67,8 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 849 con gia súc và 65,9 nghìn con gia cầm bị chết; 1.806 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; gần 101,2 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong 9 tháng ước tính 7,2 nghìn tỷ đồng, trong đó do xâm nhập mặn là 3,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 47% tổng giá trị thiệt hại.

Trong 9 tháng năm nay, các cơ quan chức năng đã phát hiện 10.715 vụ vi phạm môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 9.658 vụ với tổng số tiền phạt 143,6 tỷ đồng; cả nước xảy ra 2.254 vụ cháy, nổ, làm 79 người chết và 131 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính là 416,2 tỷ đồng./.

TỔNG CỤC THỐNG KÊ


[1] Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2020 giảm 4,5%, điều chỉnh tăng 1,5 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 6/2020. Tương tự, tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế Fitch Ratings và tổ chức Oxford Economics điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2020 ở mức giảm 4,4%, tăng 0,2 điểm phần trăm; Ngân hàng Scotiabank dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2020 giảm 3,9%.

[2] Trong báo cáo ngày 17/9/2020, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ước tính chỉ số Thước đo thương mại dịch vụ ở mức 95,6 (giá trị cơ sở 100) nhưng đã có những dấu hiệu phục hồi trong các ngành dịch vụ chính. Các chỉ số đại diện cho vận chuyển container (92,4), xây dựng (97,3) và Chỉ số nhà quản trị mua hàng-PMI (97,0) cũng có dấu hiệu phục hồi.

[3] Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng năm 2020 của Mỹ âm 5,3%; Nhật Bản âm 5,4%; khu vực đồng Euro âm 8% và giữ nguyên mức dự báo tăng trưởng 1,8% cho năm 2020 của Trung Quốc và điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm cho dự báo tăng trưởng năm 2021 lên 7,7%.

[4] Tốc độ tăng GDP quý III các năm 2011-2020 lần lượt là: 6,21%; 5,39%; 5,54%; 6,07%; 6,87%; 6,56%; 7,38%; 6,82%; 7,48%; 2,62%.

[5] Tốc độ tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 6,03%; 5,10%; 5,14%; 5,53%; 6,53%; 5,99%; 6,41%; 6,96%; 7,04%; 2,12%.

[6] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 4,03%; 2,28%; 2,11%; 2,01%; 1,78%; 0,02%; 2,08%; 2,85%; 0,91%; 1,65%.

[7] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành thủy sản 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 3,46%; 4,06%; 2,95%; 6,15%; 2,11%; 1,81%; 5,48%; 6,37%; 6,24%; 2,44%.

[8] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 9,54%; 8,50%; 4,80%; 5,58%; 9,86%; 7,40%; 6,95%; 8,99%; 9,61%; 2,69%.

[9] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 13,48%; 8,74%; 6,58%; 7,09%; 10,15%; 11,20%; 12,77%; 12,95%; 11,48%; 4,60%.

[10] Tốc độ tăng/giảm giá trị tăng thêm ngành xây dựng 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là:
– 0,01%; 2,78%; 5,31%; 6,61%; 9,0%; 9,10%; 8,30%; 8,76%; 8,33%; 5,02%.

[11] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 7,09%; 6,47%; 6,43%; 5,94%; 6,10%; 6,67%; 7,21%; 6,75%; 6,92%; 1,37%.

[12] Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Nam, Đắk Lắk,  Đắk Nông, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.

[13] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

 [14] So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp giảm 12,6%; số vốn đăng ký tăng 45%; lao động giảm 15%.

[15] Chỉ số tương ứng của quý II/2020: Có 27,3% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý trước; 40,8% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 31,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định.

[16] Khách quốc tế đến Việt Nam quý I/2020 đạt 3.686,8 nghìn lượt người; quý II/2020 đạt 57,7 nghìn lượt người.

[17] Chủ yếu là các chuyên gia Trung Quốc, Hàn Quốc làm việc tại các dự án; lái xe vận chuyển hàng hóa tại các cửa khẩu đường bộ; lưu học sinh Lào, Cam-pu-chia quay trở lại Việt Nam học tập.

[18] Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN tháng Chín so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020: Năm 2016 tăng 15,7%; năm 2017 tăng 8,1%; năm 2018 tăng 17,1%; năm 2019 tăng 11,4%; năm 2020 tăng 48%. Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN 9 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020: Năm 2016 tăng 13,1%; năm 2017 tăng 6,6%; năm 2018 tăng 11,4%; năm 2019 tăng 6,3%; năm 2020 tăng 33,3%.

[19] Số liệu tháng 9/2020 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê họp ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu tính đến ngày 27/9/2020 của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng. Tổng cục Thống kê nhận được và cập nhật báo cáo vào chiều ngày 28/9/2020.

[20] Ước tính tháng Tám xuất siêu 3,5 tỷ USD.

[21] Trong đó, 9 tháng năm 2020 xuất siêu sang EU đạt 15,2 tỷ USD, giảm 7,6% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 24,9 tỷ USD, giảm 7,8%; nhập siêu từ Hàn Quốc 18,3 tỷ USD, giảm 10,7%; nhập siêu từ ASEAN 4,8 tỷ USD, tăng 7,8%.

[22] Tốc độ tăng CPI tháng Chín so với tháng trước của các năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: tăng 0,54%; tăng 0,59%; tăng 0,59%; tăng 0,32%; tăng 0,12%. Tốc độ tăng CPI tháng Chín so với tháng 12 năm trước của các năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: tăng 3,14%; tăng 1,83%; tăng 3,2%; tăng 2,2%; tăng 0,01%.

[23] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.

[24] Tính đến 6h00 ngày 28/9/2020, trên thế giới có 33.290,4 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (gần 1.002 nghìn trường hợp tử vong). Tại Việt Nam, có 1.074 trường hợp mắc, 999 trường hợp đã được chữa khỏi (35 trường hợp tử vong).