I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng năm 2012 ước tính tăng 4,73% so với cùng kỳ năm trước. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế chín tháng năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,48%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,36%, đóng góp 1,82 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,97%, đóng góp 2,51 điểm phần trăm.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chín tháng năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 173,7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Nông nghiệp đạt 120,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9%; lâm nghiệp đạt 5,9 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2%; thuỷ sản đạt 47,5 nghìn tỷ đồng, tăng 5,3%.
a. Nông nghiệp
Tính đến trung tuần tháng Chín, cả nước đã gieo cấy được 1716,8 nghìn ha lúa mùa, bằng 100,6% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 1184,6 nghìn ha, bằng 99,4%; các địa phương phía Nam gieo cấy 532,3 nghìn ha, bằng 103,6%.
Cùng với việc gieo cấy lúa mùa, các địa phương trên cả nước đang bước vào thu hoạch lúa hè thu. Tính đến 15/9/2012, các địa phương phía Nam đã thu hoạch 1697 nghìn ha lúa hè thu, bằng 101,6% cùng kỳ năm trước và chiếm 84,4% diện tích gieo trồng, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1582,6 nghìn ha, bằng 99,2% và bằng 72% diện tích xuống giống. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa hè thu cả nước năm nay ước tính đạt 52 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so với năm trước; sản lượng ước tính đạt 13,8 triệu tấn, tăng 2,9%.
Sản lượng cây lâu năm tiếp tục tăng do nhiều diện tích đến kỳ cho sản phẩm. Sản lượng cao su năm 2012 ước tính đạt 858,1 nghìn tấn, tăng 8,7% so với năm trước; cà phê đạt 1291,1 nghìn tấn, tăng 1,1%; chè đạt 897,5 nghìn tấn, tăng 2,1%; điều 317,5 nghìn tấn, tăng 2,7%; hồ tiêu 112,7 nghìn tấn, tăng 0,6%; dừa 1237 nghìn tấn, tăng 3%.
Tính đến giữa tháng Chín, đàn trâu cả nước giảm 5% so với cùng kỳ năm 2011; đàn bò giảm 6,5%; đàn lợn, đàn gia cầm xấp xỉ cùng kỳ. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng chín tháng đạt bằng cùng kỳ năm trước; thịt bò hơi xuất chuồng ước tính tăng 1,5%; thịt lợn hơi tăng 2,6%; thịt gia cầm tăng 7%.
b. Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới tập trung chín tháng ước tính đạt 123,5 nghìn ha, bằng 95,2% cùng kỳ năm 2011; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 164,1 triệu cây, tăng 0,3%; diện tích rừng trồng được chăm sóc đạt 411 nghìn ha, tăng 1,3%; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh 932 nghìn ha, bằng mức cùng kỳ năm 2011; diện tích rừng được bảo vệ đạt 2302 nghìn ha, giảm 2%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3418,5 nghìn m3, tăng 11,5%. Trong chín tháng năm nay, diện tích rừng bị thiệt hại là 3011 ha, tăng 50,8% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 2065 ha, gấp 2 lần; diện tích rừng bị chặt, phá là 946 ha.
c. Thuỷ sản
Sản lượng thủy sản chín tháng năm nay ước tính đạt 4337 nghìn tấn, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó cá đạt 3226 nghìn tấn, tăng 5,2%; tôm đạt 509 nghìn tấn, tăng 4,4%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng chín tháng ước đạt 2328 nghìn tấn, tăng 6,5% so cùng kỳ năm 2011, trong đó cá đạt 1731 nghìn tấn, tăng 6,2%; tôm đạt 390 nghìn tấn, tăng 4,5%. Sản lượng thủy sản khai thác chín tháng ước tính đạt 2009 nghìn tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó khai thác biển đạt 1869 nghìn tấn, tăng 5,3%.
3. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Chín tăng 4,6% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng khá cao kể từ đầu năm đến nay. Tính chung chín tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm vào mức tăng chung của toàn ngành; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,2%, đóng góp 3 điểm phần trăm; sản xuất phân phối điện, khí đốt tăng 12,8%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 8,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất chín tháng tăng cao so với cùng kỳ năm 2011 là: Đóng tàu và cấu kiện nổi tăng 148,4%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 57,3%; sản xuất phụ tùng xe có động cơ tăng 44,5%; sản xuất linh kiện điện tử tăng 22,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 15,4%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 15,4%; sản xuất đường tăng 14,6%; khai thác dầu thô tăng 13,4%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 11,3%. Các ngành công nghiệp có tốc độ tăng khá là: Sản xuất bia tăng 10,5%; sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 8,8%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 8,7%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 8,7%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 8,3%; sản xuất thiết bị dây dẫn điện các loại tăng 7,6%; sản xuất sợi tăng 7,5%.
Một số ngành có tốc độ tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất mỹ phẩm, xà phòng tăng 6,9%; sản xuất pin, ắc qui tăng 6,6%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 6,3%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 2,1%; khai thác khí đốt tự nhiên giảm 2,3%; sản xuất sắt, thép, gang giảm 4,2%; sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét giảm 5,5%; khai thác than cứng giảm 6%; sản xuất xi măng giảm 7,2%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 12,4%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 14,6%.
Một số địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn có chỉ số sản xuất công nghiệp chín tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước như sau: Bắc Ninh tăng 23,5%; Bình Dương tăng 7,9%; Đồng Nai tăng 6,9%; Đà Nẵng tăng 6,1%; Hải Phòng tăng 5,1%; Hà Nội tăng 4,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 4%; Cần Thơ tăng 4%; Hải Dương giảm 1,7%; Vĩnh Phúc giảm 4,7%.
Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến tám tháng năm nay tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất mô tô, xe máy tăng 58,5%; sản xuất đường tăng 42,8%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 34,5%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 15%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 7,8%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 6,2%; sản xuất xe có động cơ tăng 5,9%; sản xuất thuốc lá tăng 4,7%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 3,1%; sản xuất pin và ắc qui tăng 2,5%; sản xuất sợi giảm 4%; sản xuất giày, dép giảm 5,2%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) giảm 6,1%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa giảm 6,2%; sản xuất xi măng giảm 19,3%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/9/2012 của ngành công nghiệp chế biến tăng 20,4% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 50,6%; sản xuất xi măng tăng 50,2%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 40,6%; sản xuất thuốc lá tăng 40,3%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 37,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 26,6%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 25,7%; sản xuất bia tăng 15,3%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất giày, dép tăng 13,7%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 10,7%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 10,4%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 5,8%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 4,5%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 13,1%; sản xuất đường giảm 42,8%.
Biến động lao động tháng Chín so với tháng Tám trong ngành công nghiệp của một số tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn như sau: Bắc Ninh tăng 2,9%; Đồng Nai tăng 1,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,8%; Bình Dương tăng 0,6%; Hải Dương tăng 0,4%; Hải Phòng tăng 0,2%; Cần Thơ tăng 0,2%; Bà Rịa -Vũng Tàu tăng 0,1%; Vĩnh Phúc giảm 2,7%; Đà Nẵng giảm 0,2%; Hà Nội giảm 0,2%.
4. Hoạt động dịch vụ
a. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức hàng hóa bán lẻ chín tháng năm nay ước tính tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 6,7%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chín tháng, kinh doanh thương nghiệp tăng 16,5%; khách sạn nhà hàng tăng 19,1%; dịch vụ tăng 20,3%; du lịch tăng 30,9%.
b. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách chín tháng năm 2012 ước tính tăng 12,1% về vận chuyển và tăng 9,8% về luân chuyển so với cùng kỳ năm 2011. Vận tải hành khách đường bộ chín tháng ước tính tăng 13,2% về vận chuyển và tăng 11,1% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước; đường sông giảm 2,1% về vận chuyển và giảm 2,5% về luân chuyển; đường hàng không tăng 1,4% về vận chuyển và tăng 8,9% về luân chuyển; đường sắt tăng 2% về vận chuyển và tăng 0,6% về luân chuyển; đường biển giảm 0,3% về vận chuyển và tăng 1,3% về luân chuyển.
Vận tải hàng hóa chín tháng năm nay ước tính tăng 9,2% về vận chuyển và giảm 11,8% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước tăng 10,5% về vận chuyển và tăng 1,4% về luân chuyển; vận tải ngoài nước giảm 15,8% về vận chuyển và giảm 19,7% về luân chuyển. Vận tải hàng hoá đường bộ chín tháng tăng 11,5% về vận chuyển và tăng 9,2% về luân chuyển; đường sông tăng 6% về vận chuyển và tăng 5,3% về luân chuyển; đường biển giảm 16% về vận chuyển và giảm 21% về luân chuyển; đường sắt giảm 5,5% về vận chuyển và giảm 4,3% về luân chuyển.
c. Bưu chính, viễn thông
Số thuê bao điện thoại phát triển mới chín tháng năm 2012 đạt trên 8,8 triệu thuê bao, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm 16,2 nghìn thuê bao cố định, bằng 37,4% cùng kỳ và 8802,2 nghìn thuê bao di động, tăng 10,4%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 9/2012 ước tính đạt 135,9 triệu thuê bao, tăng 4,3% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15 triệu thuê bao cố định, giảm 3,1% và 120,9 triệu thuê bao di động, tăng 5,2%.
Số thuê bao internet cả nước tính đến cuối tháng 9/2012 ước tính đạt 4,4 triệu thuê bao, tăng 13,9% so với cùng thời điểm năm trước. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông chín tháng ước tính đạt 122,9 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2011.
d. Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta chín tháng ước tính đạt 4853,2 nghìn lượt người, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 2877 nghìn lượt người, tăng 10,5%; đến vì công việc 852,4 nghìn lượt người, tăng 19%; thăm thân nhân đạt 853,5 nghìn lượt người, tăng 18,2%.
Trong chín tháng năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam từ Trung Quốc đạt 992 nghìn lượt người, tăng 1,3%; Hàn Quốc 526,5 nghìn lượt người, tăng 38,2%; Nhật Bản 428,1 nghìn lượt người, tăng 24,5%; Hoa Kỳ 338,8 nghìn lượt người, tăng 3%; Đài Loan 317,5 nghìn lượt người, tăng 19,4%; Ôx-trây-li-a 212,2 nghìn lượt người, tăng 0,8%; Ma-lai-xi-a 210,8 nghìn lượt người, tăng 25,4%; Pháp 169 nghìn lượt người, tăng 8,1%; Thái Lan 158,5 nghìn lượt người, tăng 23,4%.
II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
1. Xây dựng, đầu tư phát triển
a. Xây dựng
Giá trị sản xuất xây dựng chín tháng năm 2012 theo giá hiện hành ước tính đạt 488,7 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 75,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,5%; khu vực ngoài Nhà nước 396 nghìn tỷ đồng, chiếm 81%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 16,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,5%. Giá trị sản xuất xây dựng chín tháng theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 159,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 24,7 nghìn tỷ đồng, giảm 2,2%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 129,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5,4 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7%.
b. Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện chín tháng năm 2012 theo giá hiện hành ước tính đạt 708,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước và bằng 35,8% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước 263,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,2% tổng vốn và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước 275 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,8% và tăng 11,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 170 nghìn tỷ đồng, chiếm 24% và tăng 1,6%.
Trong vốn đầu tư thực hiện khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước chín tháng ước tính đạt 142,2 nghìn tỷ đồng, bằng 68,5% kế hoạch năm và tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2011, gồm có: Vốn trung ương quản lý đạt 36,1 nghìn tỷ đồng, bằng 70,9% kế hoạch năm và tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước; vốn địa phương quản lý đạt 106,1 nghìn tỷ đồng, bằng 67,7% kế hoạch năm và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2011.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/9/2012 đạt 9526,4 triệu USD, bằng 72,1% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của 775 dự án được cấp phép mới đạt 6108,4 triệu USD, bằng 82,6% số dự án và bằng 61% số vốn cùng kỳ năm 2011; vốn đăng ký bổ sung của 314 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 3418 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện chín tháng năm 2012 ước tính đạt 8,1 tỷ USD, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm 2011. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chín tháng năm nay vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là 6243,9 triệu USD; ngành kinh doanh bất động sản đạt 1806 triệu USD; các ngành còn lại đạt 1476,5 triệu USD.
2. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/9/2012 ước tính đạt 468,6 nghìn tỷ đồng, bằng 63,3% dự toán năm, trong đó thu nội địa 299,1 nghìn tỷ đồng, bằng 60,5%; thu từ dầu thô 79,8 nghìn tỷ đồng, bằng 91,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 84,4 nghìn tỷ đồng, bằng 54,8%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 97,8 nghìn tỷ đồng, bằng 62,9% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 54,9 nghìn tỷ đồng, bằng 56,2%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 61,3 nghìn tỷ đồng, bằng 55,1%; thuế thu nhập cá nhân 33,3 nghìn tỷ đồng, bằng 71,8%; thuế bảo vệ môi trường 8,7 nghìn tỷ đồng, bằng 66,2%; thu phí, lệ phí 6,2 nghìn tỷ đồng, bằng 68,8%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/9/2012 ước tính đạt 606,3 nghìn tỷ đồng, bằng 67,1% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 118,5 nghìn tỷ đồng, bằng 65,8% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 114,2 nghìn tỷ đồng, bằng 65,6%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt 417,4 nghìn tỷ đồng, bằng 69,4%; chi trả nợ và viện trợ 70,5 nghìn tỷ đồng, bằng 70,5%.
3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
a. Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Chín ước tính đạt 9,7 tỷ USD, giảm 5,9% so với tháng trước và tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2011. Tính chung chín tháng năm 2012, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 83,8 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 31,3 tỷ USD, giảm 0,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 52,5 tỷ USD, tăng 34,6%.
Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực chín tháng, một số mặt hàng có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 8,6 tỷ USD, tăng 120,6%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 5,4 tỷ USD, tăng 77,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3,4 tỷ USD, tăng 39%; cà phê đạt 2,9 tỷ USD, tăng 29,5%. Một số mặt hàng chủ lực có kim ngạch tăng khá là: Hàng dệt may đạt 11,3 tỷ USD, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2011; dầu thô đạt 6,3 tỷ USD, tăng 14,7%; giày dép đạt 5,2 tỷ USD, tăng 12,9%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,4 tỷ USD, tăng 19,7%. Riêng kim ngạch xuất khẩu gạo, cao su và than đá giảm so với cùng kỳ năm 2011, trong đó gạo đạt 2,9 tỷ USD, giảm 3,2%; cao su đạt 2,1 tỷ USD, giảm 9,9%; than đá đạt 888 triệu USD, giảm 27,1%.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu của nước ta trong chín tháng năm nay, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường tiêu thụ lớn nhất với kim ngạch đạt 14,7 tỷ USD, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là thị trường EU đạt 14,4 tỷ USD, tăng 23,5%; ASEAN đạt 12,4 tỷ USD, tăng 26,1%; Nhật Bản đạt 9,7 tỷ USD, tăng 28,8%; Trung Quốc đạt 9,4 tỷ USD, tăng 20,5%; Hàn Quốc 3,9 tỷ USD, tăng 11,5%.
b. Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Chín ước tính đạt 9,8 tỷ USD, giảm 4,5% so với tháng trước và tăng 0,2 % so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 83,7 tỷ USD, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 39,8 tỷ USD, giảm mạnh ở mức 8,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 43,9 tỷ USD, tăng 24,8%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu chín tháng năm nay tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước.
Trong chín tháng năm 2012, kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện tử máy tính và linh kiện đạt 9,3 tỷ USD, tăng 80,9%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 3,5 tỷ USD, tăng 93,1%; tân dược đạt 1,3 tỷ USD, tăng 20,7%; phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 1,1 tỷ USD, tăng 37,7%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng thấp so với cùng kỳ năm trước là: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 12,1 tỷ USD, tăng 4,8%; vải đạt 5,1 tỷ USD, tăng 1,2%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 2,3 tỷ USD, tăng 3%; hóa chất đạt 2,1 tỷ USD, tăng 3,6%; sản phẩm hóa chất đạt 1,8 tỷ USD, tăng 3,3%; gỗ và nguyên phụ liệu gỗ đạt 1,1 tỷ USD, tăng 6,4%. Một số mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt 7,1 tỷ USD, giảm 8,5%; sắt thép đạt 4,5 tỷ USD, giảm 4,3%; kim loại thường đạt 1,9 tỷ USD, giảm 6,4%; phân bón đạt 1,1 tỷ USD, giảm 9%; sợi dệt đạt 1 tỷ USD, giảm 12,3%. Riêng ôtô là mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu nên giảm nhiều, đạt 1,5 tỷ USD, giảm 34,2% (trong đó ôtô nguyên chiếc đạt 454 triệu USD, giảm 46,5%).
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu vào nước ta trong chín tháng, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất với 20,7 tỷ USD, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước; ASEAN đạt 15,3 tỷ USD, giảm 2,5%; Hàn Quốc đạt 11,3 tỷ USD, tăng 19,5%; Nhật Bản 8,7 tỷ USD, tăng 15,7%; EU đạt 6,9 tỷ USD, tăng 21,9%; Hoa Kỳ đạt 3,7 tỷ USD, tăng 11,8%.
Nhập siêu tháng Chín ước tính đạt 100 triệu USD, bằng 1% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Chín tháng năm 2012, xuất siêu ước tính 34 triệu USD. Trong chín tháng năm nay, xuất siêu hàng hóa chủ yếu tập trung ở khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khu vực kinh tế trong nước tiếp tục nhập siêu với kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy khu vực kinh tế trong nước vẫn còn gặp khó khăn trong sản xuất và tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
4. Chỉ số giá
a. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2012 tăng 2,2% so với tháng trước. Chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 17,02% (riêng dịch vụ y tế tăng 23,87%); nhóm giáo dục tăng 10,54% (riêng dịch vụ giáo dục tăng 12,16%). Chỉ số giá của các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có mức tăng thấp hơn gồm: Giao thông tăng 3,83%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,18%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,46%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,33%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,31%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,14%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,08% (trong đó, lương thực tăng 0,35%; thực phẩm giảm 0,07%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,27%); bưu chính viễn thông tăng 0,01%.
Ảnh hưởng của việc tăng giá một số nhóm hàng đến mức tăng chỉ số giá tiêu dùng tháng Chín so với tháng trước như sau: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tác động làm CPI tăng 0,94%; nhóm giáo dục làm tăng 0,6%; nhóm giao thông làm tăng 0,34%, trong đó giá xăng dầu tháng Chín tăng 7,94% dẫn đến giá một số dịch vụ giao thông công cộng tăng 1,82%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng làm tăng 0,22%. Trong mức tăng 2,2% của CPI tháng Chín so với tháng Tám, bốn nhóm hàng trên tác động làm CPI tăng 2,1%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2012 tăng 5,13% so với tháng 12/2011 và tăng 6,48% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân chín tháng năm 2012 tăng 9,96% so với bình quân cùng kỳ năm 2011.
b. Chỉ số giá sản xuất
Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản chín tháng năm 2012 tăng 7,77% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III giảm 3,73%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp chín tháng tăng 10,85% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III tăng 5,91%. Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất chín tháng tăng 10,72% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III tăng 4,86%. Chỉ số giá cước vận tải chín tháng tăng 14,02% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III tăng 9,91%.
c. Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá chín tháng năm 2012 giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III giảm 3,25% so với quý trước và giảm 1,79% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá chín tháng tăng 0,66% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III giảm 2,53% so với quý trước và giảm 4,08% so với cùng kỳ năm 2011.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Lao động, việc làm
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2012 cả nước ước tính 52,6 triệu người, tăng 1,2 triệu người so với lực lượng lao động tại thời điểm 1/7/2011, trong đó lao động nam chiếm 51,3%; lao động nữ chiếm 48,7%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động năm 2012 là 46,9 triệu người, tăng 0,4 triệu người, trong đó nam chiếm 53,3%; nữ chiếm 46,7%. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế năm 2012 ước tính 51,7 triệu người, tăng 1,3 triệu người so với năm 2011, trong đó lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 24,9 triệu người, chiếm 48,2% tổng lao động và tăng 2,3% so với năm 2011; khu vực công nghiệp và xây dựng 10,7 triệu người, chiếm 20,7% và giảm 0,2%; khu vực dịch vụ 16,1 triệu người, chiếm 31,1% và tăng 5,3%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi chín tháng năm 2012 là 2,17%, trong đó khu vực thành thị là 3,53%, khu vực nông thôn là 1,55%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi chín tháng năm 2012 là 2,98%, trong đó khu vực thành thị là 1,83%, khu vực nông thôn là 3,49%.
2. Tình hình thiếu đói
Trong tháng Chín cả nước có 14,9 nghìn hộ thiếu đói, chiếm 0,13% tổng số hộ nông nghiệp, giảm 21,8% so với cùng kỳ năm trước. Số nhân khẩu thiếu đói trong tháng là 68,1 nghìn người, chiếm 0,14% tổng số nhân khẩu nông nghiệp, giảm 23,9%. Tính chung chín tháng năm nay, cả nước có 401,4 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 30,7% so với cùng kỳ năm 2011; có 1696,2 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói, giảm 30,1%.
3. Giáo dục, đào tạo
Theo báo cáo sơ bộ về kết quả kỳ thi tốt nghiệp phổ thông năm học 2011-2012, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 98,97%, tăng 3,25 điểm phần trăm so với năm học 2010-2011. Tại thời điểm khai giảng năm học 2012-2013, cả nước có 19,2 triệu học sinh đến trường, bao gồm: 4,1 triệu trẻ em mầm non; 7,3 triệu học sinh tiểu học; gần 5 triệu học sinh trung học cơ sở và 2,8 triệu học sinh trung học phổ thông.
Tính đến thời điểm hiện nay, tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi đạt 59/63 tỉnh, thành phố. Trong năm học 2011-2012, đã có thêm 402 trường mầm non, 445 trường tiểu học, 493 trường trung học cơ sở và 86 trường trung học phổ thông được công nhận đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia cả nước lên 13084 trường, bao gồm: 2828 trường mầm non, chiếm 21,5% số trường mầm non; 7130 trường tiểu học chiếm 46,5% số trường tiểu học, trong đó 522 trường đạt chuẩn mức độ 2; 2748 trường trung học cơ sở, chiếm 26,8% số trường trung học cơ sở và 378 trường trung học phổ thông, chiếm 16,1% số trường trung học phổ thông.
Từ đầu năm, cả nước đã có thêm 12 trường cao đẳng nghề, 2 trường trung cấp nghề và 10 trung tâm dạy nghề. Nhìn chung, cơ sở dạy nghề thuộc loại hình công lập vẫn chiếm ưu thế so với loại hình tư thục. Tính đến cuối tháng 8/2012, cả nước có 148 trường cao đẳng nghề, 312 trường trung cấp nghề, 850 trung tâm dạy nghề và trên 1,3 nghìn cơ sở dạy nghề. Có 42 trung tâm dạy nghề được xây dựng tại các huyện nghèo theo NQ 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ.
4. Tình hình dịch bệnh
Trong chín tháng năm 2012, cả nước có 51,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (42 trường hợp tử vong); 554 trường hợp mắc viêm não vi rút (15 trường hợp tử vong); 124 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu (5 trường hợp tử vong); 440 trường hợp mắc bệnh thương hàn và 93,1 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng, trong đó 41 trường hợp đã tử vong.
Trong tháng Chín đã phát hiện thêm 714 trường hợp nhiễm HIV. Số người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện tại các địa phương tính từ ca phát hiện đầu tiên đến giữa tháng 9/2012 là 259,4 nghìn trường hợp, trong đó 106,2 nghìn người đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 53,7 nghìn người đã tử vong do AIDS.
5. Hoạt động thể thao
Tại Đại hội thể thao học sinh Đông Nam Á tổ chức tại Indonesia, đoàn thể thao học sinh Việt Nam đạt thành tích khá cao, xếp thứ 4 toàn đoàn với 27 huy chương vàng, 17 huy chương bạc và 16 huy chương đồng. Đoàn thể thao người khuyết tật tham gia Paralympic London 2012 với 11 vận động viên tham gia ở 3 môn thi đấu thể hiện sự nỗ lực rất lớn của các tuyển thủ.
Trong thể thao thành tích cao, tại các giải thi đấu quốc tế, đoàn vận động viên Việt Nam đã giành được 190 huy chương vàng; 161 huy chương bạc và 97 huy chương đồng. Tại Đại hội Thể thao bãi biển Châu Á lần thứ III tổ chức ở Trung Quốc, đoàn Việt Nam giành được 2 huy chương bạc môn cầu mây và 1 huy chương đồng môn bóng ném nữ, xếp thứ 10 trong số 45 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự giải. Tại Giải Olympic London 2012, Việt Nam có 18 vận động viên giành suất chính thức tham dự và toàn đoàn thể hiện quyết tâm cao trên đấu trường lớn của giải quốc tế. Đáng chú ý là đội tuyển bóng đá nữ nước ta giành chức vô địch tại Giải AFF Cup tổ chức cuối tháng 9/2012.
6. Tai nạn giao thông
Trong chín tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 7827 vụ tai nạn giao thông, làm chết 6896 người và làm bị thương 5596 người. So với cùng kỳ năm 2011, số vụ tai nạn giao thông giảm 21,7%, số người chết giảm 18,1% và số người bị thương giảm 26,7%. Bình quân 1 ngày trong chín tháng năm nay, cả nước xảy ra 29 vụ tai nạn giao thông, làm chết 25 người và làm bị thương 20 người.
7. Thiệt hại do thiên tai
Trong chín tháng năm 2012, thiên tai đã làm 229 người chết và mất tích, 355 người bị thương; hơn 2,2 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 53,7 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; gần 38,7 nghìn ha lúa và 8,5 nghìn ha hoa màu bị mất trắng; 144,8 nghìn ha lúa và 29,6 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong chín tháng ước tính 3,2 nghìn tỷ đồng. Theo báo cáo sơ bộ, tổng số tiền mặt cứu trợ các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai trong chín tháng năm 2012 là hơn 7,8 tỷ đồng.