1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2016 ước tính tăng 5,93% so với cùng kỳ năm trước, tiếp tục xu hướng tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước (Quý I tăng 5,48%, quý II tăng 5,78% và ước tính quý III tăng 6,40%) nhưng vẫn thấp hơn mức tăng 6,53% của cùng kỳ năm 2015. Nguyên nhân chủ yếu do ngành công nghiệp khai khoáng tiếp tục giảm sút[1] và nông nghiệp tăng trưởng thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm trước. Trong mức tăng 5,93% của toàn nền kinh tế 9 tháng năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,65%, là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ 6 năm gần đây[2], đóng góp 0,11 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,50%, đóng góp 2,52 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,66%, đóng góp 2,55 điểm phần trăm[3].

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành lâm nghiệp đạt mức tăng cao nhất với 6,19% so với cùng kỳ năm 2015, đóng góp 0,04 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành thủy sản tăng 1,81%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm; riêng ngành nông nghiệp mặc dù đã có dấu hiệu tăng trở lại so với mức giảm 0,78% của 6 tháng đầu năm nhưng tốc độ tăng chỉ ở mức 0,05%, đóng góp 0,01 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 7,19% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều mức tăng 9,86% của 9 tháng năm 2015, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức tăng 11,22%, đóng góp 1,80 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Ngành khai khoáng 9 tháng năm nay giảm tới 3,60%, làm giảm 0,28 điểm phần trăm, nguyên nhân chủ yếu do sản lượng dầu thô khai thác giảm so với cùng kỳ năm trước; khai thác than gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm do giá giảm. Ngành xây dựng tăng trưởng khá với tốc độ 9,1%, đóng góp 0,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

Trong khu vực dịch vụ, mức tăng của một số ngành có tỷ trọng lớn như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,15% so với cùng kỳ năm trước, đây là ngành có mức tăng trưởng cao thứ hai của khu vực dịch vụ (sau ngành thông tin và truyền thông) nhưng là ngành có đóng góp cao nhất vào mức tăng trưởng chung (0,74 điểm phần trăm); dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 5,71%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,38%, đóng góp 0,37 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 3,66% (cùng kỳ năm trước tăng 2,9%), đóng góp 0,2 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2016, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 15,54%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 32,48%; khu vực dịch vụ chiếm 41,8%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,18%.

Theo cấu trúc sử dụng GDP 9 tháng, tiêu dùng cuối cùng tăng 6,97% so với cùng kỳ năm 2015, đóng góp 4,96 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung (trong đó tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư đóng góp lớn nhất với 4,52 điểm phần trăm); tích lũy tài sản tăng 10,12%, đóng góp 2,87 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tính trong GDP ở tình trạng nhập siêu làm giảm 1,9 điểm phần trăm tăng trưởng.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a) Nông nghiệp

Tính đến trung tuần tháng Chín, cả nước gieo cấy được 1691,3 nghìn ha lúa mùa, bằng 98,2% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đã kết thúc gieo cấy với diện tích đạt 1151,6 nghìn ha, bằng 98,7%; các địa phương phía Nam gieo cấy 539,7 nghìn ha, bằng 97,2%. Đến nay lúa mùa ở miền Bắc đang trong giai đoạn vào chắc và chín, đã thu hoạch được gần 24 nghìn ha. Nếu điều kiện thời tiết thuận lợi trong những tháng cuối năm và không bị ảnh hưởng của sâu bệnh, năng suất lúa mùa của các địa phương phía Bắc năm nay ước tính xấp xỉ cùng kỳ năm trước, sản lượng ước tính đạt 5,8 triệu tấn, giảm 36,6 nghìn tấn.

Diện tích lúa hè thu cả nước năm nay ước tính đạt 2106 nghìn ha, tăng 3,2 nghìn ha so với vụ hè thu năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1674,5 nghìn ha, giảm 3,3 nghìn ha. Tính đến ngày 15/9/2016, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1648,9 nghìn ha lúa hè thu, bằng 93,6% cùng kỳ năm trước, chiếm 78,3% diện tích gieo cấy, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1422,2 nghìn ha, bằng 93,6% và chiếm 85% diện tích gieo cấy. Theo báo cáo của các địa phương, năng suất lúa hè thu cả nước năm nay ước tính đạt 53,9 tạ/ha, giảm 0,3 tạ/ha so với vụ hè thu năm 2015; sản lượng ước tính đạt 11,3 triệu tấn, giảm 49 nghìn tấn.

Đến trung tuần tháng Chín, các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy được 664,7 nghìn ha lúa thu đông, bằng 109,4% cùng kỳ năm trước, trong đó đã thu hoạch 120,2 nghìn ha với năng suất ước tính đạt 53,4 tạ/ha, tăng
0,9 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm nhìn chung ổn định. Tính đến giữa tháng Chín, đàn trâu cả nước giảm 1% so với cùng kỳ năm 2015; đàn bò tăng 2%-2,5%; đàn lợn tăng 3,5%-4%; đàn gia cầm tăng 5%-5,5%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 9 tháng năm 2016 giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt bò hơi tăng 2%; sản lượng thịt lợn hơi tăng 4,5%; sản lượng thịt gia cầm tăng 5,7%.

b)Lâm nghiệp

Trong 9 tháng năm 2016, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính đạt 151,9 nghìn ha, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 133,6 triệu cây, giảm 1,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt 6521 nghìn m3, tăng 11,8%; sản lượng củi khai thác đạt 21,3 triệu ste, giảm 0,5%.

Diện tích rừng bị thiệt hại trong 9 tháng là 4359 ha, gấp 2,5 lần cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 3256 ha, gấp 3 lần; diện tích rừng bị chặt, phá là 1103 ha, tăng 67,9%.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản 9 tháng năm 2016 ước tính đạt 4937,6 nghìn tấn, tăng 1,98% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 3601,6 nghìn tấn, tăng 1,7%; tôm đạt 570 nghìn tấn, tăng 1,7%.

Nuôi trồng thủy sản gặp nhiều khó khăn do rét đậm, rét hại ở các tỉnh phía Bắc những tháng đầu năm và tình trạng ô nhiễm nguồn nước, hạn hán, xâm nhập mặn tại các tỉnh phía Nam và Đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích nuôi trồng thủy sản 9 tháng ước tính đạt 1021,7 nghìn ha, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng đạt 2604,8 nghìn tấn, tăng 1,2%.

Sản lượng thủy sản khai thác 9 tháng của cả nước ước tính đạt 2332,8 nghìn tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1706,8 nghìn tấn, tăng 2,6%; tôm đạt 123 nghìn tấn, tăng 2,6% (Sản lượng thủy sản khai thác biển 9 tháng đạt 2195,8 nghìn tấn, tăng 3%). Sự cố môi trường biển xảy ra cuối tháng Tư tại vùng biển các tỉnh Bắc Trung Bộ (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế) gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt đã ảnh hưởng tới tâm lý người tiêu dùng; ngư dân phải tạm dừng đánh bắt ở vùng ven bờ và vùng lộng nên sản lượng thủy sản khai thác của các địa phương giảm mạnh[4].

3. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Chín ước tính tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 9,9% của cùng kỳ năm 2015 (chủ yếu do ngành khai khoáng giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước), trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,4%, đóng góp 7,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 12,1%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 6,9%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 4,1%, làm giảm 0,9 điểm phần trăm mức tăng chung[5].

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 8 tháng tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2015. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/9/2016 tăng 9% so với cùng thời điểm năm trước; tỷ lệ tồn kho bình quân 8 tháng năm 2016 là 68,4%.

4. Hoạt động của doanh nghiệp

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[6]

Tính chung 9 tháng năm nay, cả nước có 81.451 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 629,1 nghìn tỷ đồng, tăng 19,2% về số doanh nghiệp và tăng 49,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015[7]; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 7,7 tỷ đồng, tăng 25,4%. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng là 928,7 nghìn người, bằng 92,9% cùng kỳ năm 2015. Trong 9 tháng năm nay còn có 20.510 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 59,6% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2015 tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2014), nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 9 tháng năm nay lên gần 102 nghìn doanh nghiệp. Điều này cho thấy khung khổ pháp lý mới cùng với các giải pháp của Chính phủ trong việc hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển đã phát huy hiệu quả, giúp doanh nghiệp tìm thấy hướng đi, cơ hội phát triển mới.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2016 cho thấy: Có 80,3% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý III khá ổn định và tốt hơn quý trước, có 19,7% số doanh nghiệp đánh giá còn gặp khó khăn. Dự báo trong quý IV, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khả quan hơn quý III, nhất là đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp Nhà nước. Cụ thể, 85,6% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất ổn định và tốt hơn, trong đó có 48,8% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 36,8% số doanh nghiệp đánh giá ổn định, có 14,4% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.

5. Hoạt động dịch vụ

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2016 ước tính đạt 2605,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, loại trừ yếu tố giá còn tăng 7,7%.

Vận tải hành khách 9 tháng năm 2016 ước tính đạt 2710,3 triệu lượt khách, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước và 128,1 tỷ lượt khách.km, tăng 10,5%. Vận tải hàng hóa 9 tháng đạt 937,6 triệu tấn, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước và 179 tỷ tấn.km, tăng 3,8%.

Doanh thu lĩnh vực viễn thông 9 tháng năm 2016 ước tính đạt 285,3 nghìn tỷ đồng, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm 2015. Tính đến cuối tháng 9/2016, tổng số thuê bao điện thoại ước tính đạt 134,8 triệu thuê bao, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó số thuê bao di động đạt 129 triệu thuê bao, tăng 6%; thuê bao cố định đạt 5,8 triệu, giảm 6,5%. Thuê bao internet băng rộng cố định ước tính đạt 8,8 triệu thuê bao, tăng 23,4% so với cùng kỳ năm 2015.

Khách quốc tế đến nước ta trong 9 tháng ước tính đạt 7265,4 nghìn lượt người, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 6109 nghìn lượt người, tăng 29,7%; đến bằng đường bộ đạt 1045,2 nghìn lượt người, tăng 10,8%; đến bằng đường biển đạt 111,2 nghìn lượt người, giảm 13,7%.

6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm

Tính đến thời điểm 20/9/2016, tổng phương tiện thanh toán tăng 11,76% so với cuối năm 2015 (cùng kỳ năm trước tăng 8,88%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 12,02% (cùng kỳ năm 2015 tăng 8,9%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 10,46% (cùng kỳ năm trước tăng 10,78%). Lãi suất huy động hiện nay tương đối ổn định (chỉ tăng khoảng 0,2%-0,3% trong khoảng thời gian từ giữa tháng 2 đến tháng 3/2016).

Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường quý III/2016 ước tính tăng 23% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 32%; doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tăng 15%.

7. Đầu tư

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 9 tháng năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 1006,9 nghìn tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước và bằng 33,1% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 378,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,6% tổng vốn và tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 387,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,5% và tăng 10,1%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 240,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,9% và tăng 12,6%.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 9 tháng ước tính đạt 180 nghìn tỷ đồng, bằng 69,1% kế hoạch năm, trong đó vốn trung ương quản lý đạt 42,6 nghìn tỷ đồng, bằng 68,1%; vốn địa phương quản lý đạt 137,4 nghìn tỷ đồng, bằng 69,4% kế hoạch năm.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/9/2016 thu hút 1820 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 11.164,6 triệu USD, tăng 27,1% về số dự án và tăng 1,1% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Bên cạnh đó, có 851 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5265,5 triệu USD. Tính chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn bổ sung trong 9 tháng năm nay đạt 16.430,1 triệu USD, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm 2015. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 9 tháng ước tính đạt 11,02 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2015.

8. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2016 ước tính đạt 665,2 nghìn tỷ đồng, bằng 65,6% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 536,3 nghìn tỷ đồng, bằng 68,3%; thu từ dầu thô đạt 28,4 nghìn tỷ đồng, bằng 52%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 97,4 nghìn tỷ đồng, bằng 56,6%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2016 ước tính đạt 819,4 nghìn tỷ đồng, bằng 64,4% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 130,2 nghìn tỷ đồng, bằng 51,1%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 574,2 nghìn tỷ đồng, bằng 69,7%; chi trả nợ và viện trợ đạt 109,8 nghìn tỷ đồng, bằng 70,8%.

9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

a) Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Chín ước tính đạt 15,0 tỷ USD, giảm 6,8% so với tháng trước và tăng 9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 128,2 tỷ USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2015, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 37,0 tỷ USD, tăng 5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 91,2 tỷ USD, tăng 7,4%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng đạt 132,4 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm 2015.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Chín ước tính đạt 15,1 tỷ USD, giảm 2,7% so với tháng trước và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2016, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 125,4 tỷ USD, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2015, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 51,4 tỷ USD, tăng 2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 74,0 tỷ USD, tăng 0,9%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch nhập khẩu 9 tháng đạt 135,1 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2015.

Cán cân thương mại hàng hóa tháng Chín ước tính nhập siêu 100 triệu USD, tính chung 9 tháng năm 2016 xuất siêu 2,76 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 14,38 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 17,14 tỷ USD.

b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Xuất khẩu dịch vụ 9 tháng năm nay ước tính đạt 9,2 tỷ USD, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt 6,3 tỷ USD, chiếm 68,2% tổng kim ngạch và tăng 17,9%. Nhập khẩu dịch vụ 9 tháng ước tính đạt 12,6 tỷ USD, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu dịch vụ vận tải đạt 6,6 tỷ USD, chiếm 52,2% tổng kim ngạch và tăng 2,2%. Nhập siêu dịch vụ 9 tháng là 3,4 tỷ USD.

10. Chỉ số giá

a) Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2016 tăng 0,54% so với tháng trước, trong đó nhóm giáo dục tăng cao nhất với 7,19% (dịch vụ giáo dục tăng 8,36%) do trong tháng có 53 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện điều chỉnh tăng giá học phí theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính Phủ (tác động làm CPI chung tăng khoảng 0,42%). Nhóm giao thông tăng 0,55% do giá xăng dầu được điều chỉnh tăng  vào các thời điểm 19/8/2016 và 05/9/2016 (làm chỉ số giá nhóm nhiên liệu tăng 1,2%, tác động làm CPI chung tăng 0,05%). Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,18%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,14%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11%; nhà ở và vật liệu xây dựng; hàng ăn và dịch vụ ăn uống cùng tăng 0,09%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,04%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%; riêng bưu chính viễn thông giảm 0,07%.

CPI tháng 9/2016 tăng 3,14% so với tháng 12/2015, bình quân mỗi tháng tăng 0,34%. CPI bình quân 9 tháng năm 2016 tăng 2,07% so với bình quân cùng kỳ năm 2015, cao hơn so với mức tăng 0,74% của bình quân cùng kỳ năm trước, nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng CPI bình quân 9 tháng của một số năm gần đây[8] và vẫn nằm trong giới hạn mục tiêu 5% mà Quốc hội đề ra. Tuy nhiên, từ nay đến hết năm 2016 có nhiều yếu tố gây áp lực lên CPI: Giá dịch vụ y tế, giá xăng dầu, chi tiêu dùng cuối năm, Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và các Bộ, ngành liên quan theo dõi sát diễn biến giá cả, thị trường, đồng thời cần cân nhắc thời gian điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng thiết yếu để tránh gây tác động lan tỏa về mặt tâm lý lên CPI.

Lạm phát cơ bản tháng 9/2016 tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 1,85% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 9 tháng năm 2016 tăng 1,81% so với bình quân cùng kỳ năm 2015.

b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng 9/2016 giảm 0,36% so với tháng trước; tăng 17,11% so với tháng 12/2015; tăng 13,08% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2016 tăng 0,07% so với tháng trước; giảm 0,99% so với tháng 12/2015 và giảm 0,77% so với cùng kỳ năm 2015.

c) Chỉ số giá sản xuất

Chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III năm 2016 tăng 0,43% so với quý trước và tăng 3,31% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,78% so với cùng kỳ năm 2015.

Chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp quý III tăng 0,65% so với quý trước và giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp giảm 0,93% so với cùng kỳ năm 2015.

Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý III năm nay tăng 0,85% so với quý trước và giảm 0,41% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất giảm 1,30% so với cùng kỳ năm 2015.

Chỉ số giá cước vận tải kho bãi quý III tăng 0,23% so với quý trước và giảm 2,23% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, chỉ số giá cước vận tải kho bãi giảm 2,11% so với cùng kỳ năm 2015.

Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý III năm 2016 tăng 0,43% so với quý trước và tăng 2,31% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm nay, chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 2,09% so với cùng kỳ năm 2015.

d) Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý III năm nay tăng 1,19% so với quý trước và giảm 1,72% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2016, chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá giảm 3,14% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý III tăng 1,15% so với quý trước và giảm 5,83% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá giảm 7,13% so với cùng kỳ năm 2015.

Tỷ giá thương mại hàng hóa[9] quý III năm nay tăng 0,04% so với quý trước và tăng 4,37% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, tỷ giá thương mại hàng hoá tăng 4,29% so với cùng kỳ năm 2015.

11. Dân số, lao động và việc làm

Dân số trung bình năm 2016 của cả nước ước tính đạt 92,70 triệu người, tăng 987,8 nghìn người, tương đương tăng 1,08% so với năm 2015, bao gồm dân số thành thị 32,06 triệu người, chiếm 34,6%; dân số nông thôn 60,64 triệu người, chiếm 65,4%; dân số nam 45,75 triệu người, chiếm 49,4%; dân số nữ 46,95 triệu người, chiếm 50,6%.

Theo kết quả Điều tra biến động dân số và Kế hoạch hóa gia đình thời điểm 01/4/2016, tổng tỷ suất sinh ước tính đạt 2,09 con/phụ nữ; tỷ suất sinh thô ước tính đạt 15,74‰; tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh là 112,2 bé trai/100 bé gái; tỷ suất chết thô là 6,83‰; tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 14,52‰; tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 21,80‰.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước đến thời điểm 01/10/2016 ước tính là 54,44 triệu người, tăng 122,7 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2015, bao gồm: Lao động nam 28,02 triệu người, chiếm 51,5%; lao động nữ 26,42 triệu người, chiếm 48,5%. Xét theo khu vực, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên khu vực thành thị là 17,54 triệu người, chiếm 32,2%; khu vực nông thôn là 36,90 triệu người, chiếm 67,8%.

Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tại thời điểm trên ước tính 47,88 triệu người, giảm 233,2 nghìn người so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động nam 25,82 triệu người, chiếm 53,9%; lao động nữ 22,06 triệu người, chiếm 46,1%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động khu vực thành thị là 16,02 triệu người, chiếm 33,5%; khu vực nông thôn là 31,86 triệu người, chiếm 66,5%.

Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong 9 tháng năm nay ước tính 53,27 triệu người, bao gồm 22,32 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 41,9% tổng số lao động của cả nước; khu vực công nghiệp và xây dựng 13,16 triệu người, chiếm 24,7%; khu vực dịch vụ 17,79 triệu người, chiếm 33,4%.

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I/2016 là 2,25%; quý II là 2,29%; ước tính quý III là 2,34%. Tính chung 9 tháng năm nay, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,29%, trong đó khu vực thành thị là 3,23%; khu vực nông thôn là 1,82%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15-24 tuổi) 9 tháng đầu năm là 7,04%, trong đó khu vực thành thị là 11,65%; khu vực nông thôn là 5,27%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I là 1,76%; quý II là 1,55%; quý III ước tính là 1,68%. Tính chung 9 tháng năm 2016, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 1,66%, trong đó khu vực thành thị là 0,70%; khu vực nông thôn là 2,11%.

Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản[10] quý II là 56,1%; quý III ước tính là 55,8%. Tính chung 9 tháng năm 2016 cả nước có 55,9% lao động có việc làm phi chính thức, trong đó khu vực thành thị là 47,1%; khu vực nông thôn là 63,9%.

12. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Trong 9 tháng năm 2016, cả nước có 251,2 nghìn lượt hộ thiếu đói, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 1040,7 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, tăng 15,4%. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thiếu đói tăng so với cùng kỳ năm trước là do ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán và tình trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng tại một số khu vực, đặc biệt là ở các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên. Trong 9 tháng đầu năm các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 16,8 nghìn tấn lương thực, riêng tháng 9 hỗ trợ 775 tấn lương thực.

Tỷ lệ hộ nghèo năm 2016 ước tính 5,8%-6,0%. Nếu theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020[11], tỷ lệ hộ nghèo ước tính khoảng 10,4%. Trong 9 tháng, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo ước tính là 4677 tỷ đồng, bao gồm: 2964 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1173 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 540 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. Bên cạnh đó, đã có hơn 8,7 triệu bảo hiểm y tế, sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí đã được phát tặng cho các đối tượng chính sách trên địa bàn cả nước.

Sự cố môi trường biển xảy ra cuối tháng Tư tại 04 tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế làm hải sản chết bất thường, gây thiệt hại lớn về kinh tế – xã hội và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân địa phương. Để hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng sự cố trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 772/QĐ-TTg ngày 09/5/2016 về việc hỗ trợ khẩn cấp cho người dân tại các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế bị ảnh hưởng do hải sản chết bất thường, đồng thời chỉ đạo các ngành, các cấp khẩn trương khắc phục hậu quả sự cố, hỗ trợ người dân kịp thời và đạt hiệu quả. Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành, địa phương liên quan khẩn trương xác định thiệt hại, xây dựng định mức bồi thường, hỗ trợ để người dân tại 04 tỉnh sớm ổn định sản xuất và đời sống.

13. Giáo dục, đào tạo

Tính đến cuối tháng 9/2016, cả nước có 52/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, trong đó 12 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2.

Tại thời điểm khai giảng năm học 2016-2017, cả nước có trên 4,9 triệu trẻ em đi học mầm non, bao gồm 0,7 triệu trẻ em đi nhà trẻ và 4,2 triệu trẻ em đi học mẫu giáo; 15,7 triệu học sinh phổ thông đến trường, bao gồm 7,7 triệu học sinh tiểu học; 5,5 triệu học sinh trung học cơ sở và 2,5 triệu học sinh trung học phổ thông.

Theo báo cáo sơ bộ, năm học 2015 – 2016 cả nước có 887,4 nghìn thí sinh tham dự kỳ thi trung học phổ thông quốc gia, giảm 11,8% so với năm học trước. Kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm học 2016-2017 có gần 300 trường có đề án tự chủ tuyển sinh, tăng 100 trường so với năm học trước. Sau đợt một, 127 trường đại học, học viện trên địa bàn cả nước đã tuyển sinh được 277 nghìn thí sinh, đạt 91% chỉ tiêu đặt ra, trong đó 41 trường đã tuyển đủ chỉ tiêu.

14. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong 9 tháng năm 2016, cả nước có 68,7 nghìn người mắc bệnh sốt xuất huyết (21 trường hợp tử vong); 25,7 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 255 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 686 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (17 trường hợp tử vong); 41 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (05 trường hợp tử vong).

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 17/9/2016 là 229,4 nghìn người, trong đó 86,8 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 88,4 nghìn người.

Tính từ 17/12/2015 đến 17/9/2016, trên địa bàn cả nước xảy ra 100 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 3025 người bị ngộ độc, trong đó 9 trường hợp tử vong.

15. Hoạt động thể dục thể thao

Hoạt động thể thao thành tích cao 9 tháng năm nay đạt được nhiều kết quả nổi bật: Tại Thế vận hội Olympic Rio 2016, đoàn Thể thao Việt Nam giành 01 huy chương vàng và 01 huy chương bạc, xếp vị trí thứ 48/206 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự. Tại Thế vận hội Paralympic Rio 2016, đoàn thể thao Người khuyết tật Việt Nam đã giành được 01 huy chương vàng; 01 huy chương bạc và 02 huy chương đồng, xếp thứ 55/83 trên bảng tổng sắp huy chương.

16. Tai nạn giao thông

Trong 9 tháng năm 2016, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 15411 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 7473 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 7938 vụ va chạm giao thông, làm 6440 người chết; 4285 người bị thương và 9188 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông 9 tháng giảm 7,6% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 1,8%; số vụ va chạm giao thông giảm 12,5%); số người chết giảm 2%; số người bị thương giảm 2,7% và số người bị thương nhẹ giảm 15%.

Bình quân 01 ngày trong 9 tháng năm 2016, trên địa bàn cả nước xảy ra 56 vụ tai nạn giao thông, gồm 27 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 29 vụ va chạm giao thông, làm 23 người chết, 16 người bị thương và 33 người bị thương nhẹ.

17. Thiệt hại do thiên tai[12]

Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai xảy ra trong 9 tháng năm 2016 đã làm 125 người chết và mất tích; 266 người bị thương; hơn 3,5 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 95,9 nghìn ngôi nhà bị ngập, sạt lở, tốc mái; 227,3 nghìn ha lúa, 59,2 nghìn ha hoa màu và 23,9 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng; 37,5 nghìn con gia súc, 256,1 nghìn gia cầm và 862 tấn thủy sản các loại bị chết. Tổng giá trị thiệt hại trong 9 tháng ước tính 10,5 nghìn tỷ đồng.

18. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Trong 9 tháng năm 2016 đã phát hiện 10995 vụ vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 5444 vụ với tổng số tiền phạt hơn 428,8 tỷ đồng. Tính chung 9 tháng, cả nước xảy ra 2460 vụ cháy, nổ làm 90 người chết và 216 người bị thương, thiệt hại ước tính 1058 tỷ đồng.

[1] Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng quý I tăng 0,2%; quý II giảm 5,3%; quý III giảm 6,8%.

[2] Tốc độ tăng khu vực I của 9 tháng năm 2011 là 3,95%; 2012: 2,75%; 2013: 2,38%; 2014: 2,94% và 2015 là 2,08%.

[3] Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng GDP 9 tháng năm 2015 như sau: Khu vực I đóng góp 0,40 điểm phần trăm; khu vực II đóng góp 3,20 điểm phần trăm; khu vực III đóng góp 2,43 điểm phần trăm.

[4] Sản lượng thủy sản khai thác 9 tháng so với cùng kỳ năm trước của Hà Tĩnh giảm 3,66 nghìn tấn (giảm 14,4%); Quảng Bình giảm 6,0 nghìn tấn (giảm 13,4%); Quảng Trị giảm 4,8 nghìn tấn (giảm 27,1%); Thừa Thiên – Huế giảm 7,2 nghìn tấn (giảm 23,9%).

[5] 9 tháng năm 2015 ngành khai khoáng tăng 8,6%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,2%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,4%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,2%.

[6] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

[7] Trong 9 tháng năm 2016 còn có 1160,4 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn, nâng tổng số vốn đăng ký và bổ sung thêm vào nền kinh tế trong 9 tháng đạt 1789,5 nghìn tỷ đồng.

[8] CPI bình quân 9 tháng so với cùng kỳ của một số năm như sau: Năm 2008 tăng 22,76%; năm 2009 tăng 7,64%; năm 2010 tăng 8,64%; năm 2011 tăng 18,16%; năm 2012 tăng 9,96%; năm 2013 tăng 6,83%; năm 2014 tăng 4,61%.

[9] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.

[10] Lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản bao gồm những người không làm việc trong khu vực hộ nông nghiệp và thuộc một trong ba nhóm sau: (i) lao động gia đình không được hưởng công hưởng hương; (ii) người chủ hoặc xã viên hợp tác xã của cơ sở chưa có đăng ký kinh doanh và (iii) người làm công ăn lương không được ký hợp đồng lao động hoặc được ký hợp đồng hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội theo hình thức bắt buộc.

[11] Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo tiếp cận
đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 như sau:

– Hộ nghèo khu vực nông thôn là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí: (1) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống và (2) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt  từ 03/10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên;

– Hộ nghèo khu vực thành thị là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí: (1) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống và (2) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt  từ 03/10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

[12] Chưa kể thiệt hại do tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng tại khu vực Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.