Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.

Trong bối cảnh không thuận lợi đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 09/01/2009 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2009. Ngày 6/4/2009, Bộ Chính trị đã ra Kết luận về tình hình kinh tế-xã hội quý I/2009 và các giải pháp chủ yếu đến cuối năm 2009. Ngày 19/6/2009, kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khoá XII đã ra Nghị quyết số 32/2009/QH12 điều chỉnh mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009 là “Tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong đó, mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”.

Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhạy bén, kịp thời, tập trung và quyết liệt của Đảng, Chính phủ; sự nỗ lực và chủ động khắc phục khó khăn, sự sáng tạo  của các Bộ, Ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và của toàn dân nên nước ta đã ngăn chặn được suy giảm kinh tế, càng về cuối năm càng nâng cao được tốc độ tăng trưởng. Trên cơ sở số liệu 11 tháng và ước tính tháng 12, Tổng cục Thống kê khái quát kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009 của cả nước trên ba mặt: (1) Ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững; (2) Giữ ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại; (3) Bảo đảm an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác.

I. KẾT QUẢ NGĂN CHẶN SUY GIẢM KINH TẾ, DUY TRÌ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ HỢP LÝ, BỀN VỮNG

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp nhất trong nhiều năm gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và 6,9%. Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.

Từ diễn biến và kết quả tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2009 có thể đưa ra một số nhận xét, đánh giá như sau:

Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm 2008, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như trên là một thành công lớn.

Hai là, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I và quý II năm 2009 thấp hơn tốc độ tăng của quý I và quý II năm 2008; nhưng quý III/2009 tăng 6,04%, cao hơn tốc độ tăng 5,98% của quý III/2008 và quý IV/2009 tăng 6,9%, cao hơn tốc độ tăng 5,89% của quý IV/2008 cho thấy nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tốc độ tăng trưởng, chứng tỏ các chính sách, giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ đề ra, được triển khai trong năm vừa qua phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy hiệu quả.

Tổng sản phẩm trong nước năm 2009 theo giá so sánh 1994

%

  2008 2009
       Tổng số 6,18 5,32
A. Phân theo khu vực kinh tế
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 4,07 1,83
Công nghiệp và xây dựng 6,11 5,52
Dịch vụ 7,18 6,63
B. Phân theo quý trong năm
Qúy I 7,49 3,14
Qúy II 5,72 4,46
Qúy III 5,98 6,04
Qúy IV 5,89 6,90

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2009 theo giá so sánh 1994 đạt 97,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,76% so với cùng kỳ năm trước; đến 6 tháng cuối năm đã đạt 122,8 nghìn tỷ đồng, tăng 3,16% so với 6 tháng cuối năm 2008. Do vậy, tính chung cả năm 2009 đạt 219,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3% so với năm 2008, bao gồm nông nghiệp đạt 160,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2%; lâm nghiệp đạt 7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,8%; thuỷ sản đạt 52,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4%.

Nông nghiệp

Năm 2008 được mùa lớn với sản lượng lúa đạt 38,7 triệu tấn, tăng 2,8 triệu tấn so với năm 2007 và là năm sản lượng lúa đạt mức cao nhất trong 12 năm trước đó. Năm 2009, mặc dù nước ta, đặc biệt là Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ bị bão lũ gây thiệt hại nặng nề, nhưng nhờ có sự nỗ lực đẩy mạnh sản xuất của các vùng, miền khác, nhất là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long nên sản lượng lúa cả năm vẫn đạt gần 38,9 triệu tấn, tăng 165,7 nghìn tấn so với năm 2008, bao gồm lúa đông xuân đạt 18,7 triệu tấn, tăng 369,4 nghìn tấn so với vụ đông xuân năm 2008 do diện tích tăng 47,6 nghìn ha và năng suất tăng 0,3 tạ/ha; lúa hè thu đạt 11,2 triệu tấn, giảm 211,6 nghìn tấn do diện tích giảm 10,4 nghìn ha và năng suất giảm 0,7 tạ/ha; lúa mùa đạt 9 triệu tấn, chỉ tăng 7,9 nghìn tấn do năng suất không tăng và diện tích cũng chỉ tăng 2,7 nghìn ha. Nếu tính chung cả 4,4 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm đạt 43,3 triệu tấn, tăng 24,4 nghìn tấn so với năm 2008 (Lúa tăng 165,7 nghìn tấn, nhưng ngô giảm 141,3 nghìn tấn).

Diện tích và sản lượng các loại cây hàng năm khác đạt thấp, thậm chí một số loại cây trồng còn giảm sút so với năm 2008 do vụ đông bị bão, lũ như: Khoai lang đạt 1207,6 nghìn tấn, giảm 118 nghìn tấn (diện tích giảm 16,2 nghìn ha); đỗ tương đạt 213,6 nghìn tấn, giảm 54 nghìn tấn (diện tích giảm 45,9 nghìn ha); lạc đạt 525,1 nghìn tấn, giảm 5,1 nghìn tấn (diện tích giảm 6,1 nghìn ha). Riêng sản lượng sắn và mía giảm nhiều còn do giá tiêu thụ trên thị trường thấp nên một phần diện tích đã được chuyển đổi sang trồng các loại cây khác (Diện tích trồng sắn giảm 45,2 nghìn ha, sản lượng chỉ đạt 8,5 triệu tấn, giảm 753 nghìn tấn; diện tích trồng mía giảm 10,6 nghìn ha và sản lượng chỉ đạt 15,2 triệu tấn, giảm 899,1 nghìn tấn).

Cây lâu năm có xu hướng phát triển khá, một mặt do giá bán sản phẩm tăng; mặt khác, những năm trước đây nhiều địa phương đã tiến hành trồng thay thế những diện tích cây già cỗi bằng loại cây giống mới có năng suất và chất lượng cao nên thu nhập từ cây lâu năm cao hơn các loại cây trồng khác đã khuyến khích các doanh nghiệp và người dân tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng. Đặc biệt trong năm 2009, một số mô hình, dự án được triển khai tích cực và có hiệu quả như: Dự án trồng mới cây cao su ở một số tỉnh thuộc miền núi phía Bắc (Yên Bái và Lai Châu mỗi tỉnh 3,5 nghìn ha; Điện Biên 3,2 nghìn ha; Sơn La 3,9 nghìn ha); dự án trồng 320 ha chè cành năng suất cao ở Thái Nguyên; dự án trồng cao su trên đất lâm nghiệp ở Tây Nguyên và Bình Phước hoặc mô hình đầu tư giống, vật tư cho những vùng trọng điểm chuyên canh cây hồ tiêu ở Gia Lai.

Nhờ vậy, diện tích chè năm 2009 đạt 128,1 nghìn ha, tăng 2,6 nghìn ha so với năm trước; cà phê 537 nghìn ha, tăng 6,1 nghìn ha; cao su 674,2 nghìn ha, tăng 42,8 nghìn ha; hồ tiêu 50,5 nghìn ha, tăng 0,6 nghìn ha. Sản lượng một số cây lâu năm tăng khá, trong đó chè búp ước tính đạt 798,8 nghìn tấn, tăng 7% so với năm 2008 (diện tích cho sản phẩm tăng 2,7%; năng suất tăng 4,2%); cao su 723,7 nghìn tấn, tăng 9,7% (diện tích cho sản phẩm tăng 5,6%; năng suất tăng 3,8%); hồ tiêu 105,6 nghìn tấn, tăng 7,2% (diện tích cho sản phẩm tăng 4,5%; năng suất tăng 2,6%).

Chăn nuôi tiếp tục phát triển, nhất là chăn nuôi tập trung, quy mô lớn. Theo kết quả điều tra trang trại thời điểm 01/7/2009, số trang trại chăn nuôi đã tăng 18,5% so với cùng thời điểm năm 2008, trong đó một số địa phương vùng Đông Nam Bộ có số trang trại chăn nuôi tăng trên 50% như: Bình Phước tăng 60%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 58,7%; Bình Dương tăng 51%. Do nhiều địa phương mở rộng hình thức chăn nuôi tập trung, dịch bệnh trong năm tuy vẫn phát sinh nhưng ở phạm vi hẹp nên số lượng gia súc, gia cầm nhìn chung tăng hơn năm 2008.

Theo kết quả điều tra chăn nuôi tại thời điểm 01/10/2009, đàn lợn cả nước có 27627,7 nghìn con, tăng 3,5% so với 01/10/2008; đàn gia cầm 280,2 triệu con, tăng 12,8%; đàn trâu 2886,6 nghìn con, giảm 0,4%; đàn bò 6103,3 nghìn con, giảm 3,7%. Đàn trâu, bò giảm chủ yếu là giảm trâu, bò cày kéo (số trâu cày kéo giảm 4,7%; bò cày kéo giảm 15,6%) nên sản lượng sản phẩm chăn nuôi năm 2009 vẫn đạt khá. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước tính đạt 75 nghìn tấn, tăng 4,8% so với năm 2008; sản lượng thịt bò đạt 257,8 nghìn tấn, tăng 13,7%; sản lượng thịt lợn đạt 2931,4 nghìn tấn, tăng 4,5%; sản lượng thịt gia cầm đạt 502,8 nghìn tấn, tăng 12,2%; trứng gia cầm đạt 5952,1 triệu quả, tăng 9%.

Lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng tập trung năm 2009 ước tính đạt 212 nghìn ha, tăng 5,9% so với năm 2008. Một số địa phương có diện tích rừng trồng mới tập trung đạt cao là: Hà Giang 17 nghìn ha; Tuyên Quang 14,9 nghìn ha; Yên Bái 13,9 nghìn ha; Thanh Hoá 12 nghìn ha; Nghệ An 9,5 nghìn ha; Quảng Ngãi 8,7 nghìn ha. Diện tích khoanh nuôi tái sinh rừng năm 2009 ước tính đạt 1032 nghìn ha, tăng 5,2% so với năm trước; số cây trồng phân tán đạt 180,4 triệu cây, giảm 1,8%; diện tích rừng được chăm sóc 486 nghìn ha, tăng 4,3%. Sản lượng gỗ khai thác đạt 3766,7 nghìn m3, tăng 5,7%. Những địa phương có sản lượng gỗ khai thác lớn là: Tuyên Quang 218 nghìn m3; Yên Bái 200 nghìn m3; Quảng Ngãi 180 nghìn m3; Quảng Nam 169 nghìn m3; Bình Định 167 nghìn m3; Hoà Bình 135 nghìn m3.

Kết quả trồng, chăm sóc rừng và khai thác gỗ, lâm sản đạt khá chủ yếu do đầu tư được tăng cường. Ngoài đầu tư lớn từ các chương trình dự án (riêng Dự án 5 triệu ha rừng năm 2009 đã đầu tư 1180 tỷ đồng, tăng 43,9% so với năm 2008), nhiều địa phương còn huy động được vốn đầu tư của các hộ gia đình do việc thực hiện chính sách giao đất, giao rừng bảo đảm được quyền lợi ổn định lâu dài cho các hộ nhận khoán khoanh nuôi tái sinh rừng.

Công tác bảo vệ rừng và tuyên truyền phòng chống cháy rừng được các địa phương quan tâm triển khai rộng đến các thôn, bản nên đã hạn chế tình trạng cháy rừng, chặt phá rừng. Tổng diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá năm 2009 là 3221 ha, giảm 18,8% so với năm 2008, trong đó diện tích rừng bị cháy 1658 ha, giảm 1,2%; diện tích rừng bị chặt phá 1563 ha, giảm 30,3%. Tuy nhiên, một số địa phương vẫn còn xảy ra tình trạng cháy rừng với diện tích lớn như: Hà Giang 381 ha; Yên Bái 201,4 ha; Lạng Sơn 144,8 ha; Sơn La 133,6 ha; Cao Bằng 93,7 ha. Những địa phương có diện tích rừng bị chặt phá nhiều là: Bình Phước 489 ha; Lâm Đồng 488 ha; Đắk Nông 284 ha; Sơn La 227 ha.

Thuỷ sản

Sản lượng thuỷ sản năm 2009 ước tính đạt 4847,6 nghìn tấn, tăng 5,3% so với năm 2008, trong đó cá đạt 3654,1 nghìn tấn, tăng 5,3%; tôm 537,7 nghìn tấn, tăng 7,2%.

Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng năm 2009 ước tính đạt 2569,9 nghìn tấn, tăng 4,2% so với năm trước, chủ yếu do các địa phương tiếp tục chuyển đổi và mở rộng diện tích nuôi trồng theo hướng kết hợp đa canh, đa con. Bên cạnh đó, mô hình nuôi thuỷ sản lồng, bè tiếp tục phát triển, đặc biệt là nuôi lồng, bè trên biển ở các tỉnh: Kiên Giang, Quảng Nam, Ninh Thuận, Phú Yên, Hải Phòng. Tính chung số lồng bè nuôi thuỷ sản năm 2009 của cả nước đạt 98,4 nghìn chiếc, tăng 12,6 nghìn chiếc (tăng 14,7%) so với năm 2008.

Nuôi cá tra vẫn gặp nhiều khó khăn do giá cá nguyên liệu và thị trường tiêu thụ không ổn định. Diện tích nuôi thả cá tra năm nay ước tính đạt 9 nghìn ha, giảm 12,4% so với năm trước, trong đó nuôi cá tra công nghiệp 6,6 nghìn ha, giảm 10,3% (Diện tích nuôi thả cá tra công nghiệp ở Đồng Tháp chỉ còn 1791 ha, giảm 28%; Cần Thơ 999 ha, giảm 16,7%; Tiền Giang 123 ha, giảm 12,1%; An Giang 1108 ha, giảm 9%). Sản lượng cá tra thu hoạch năm 2009 ước tính đạt 1006,3 nghìn tấn, giảm 6,9% so với năm 2008.

 Diện tích nuôi tôm sú năm 2009 ước tính đạt 549,1 nghìn ha, giảm 10,7% so với năm trước, chủ yếu do sức mua của những thị trường tiêu thụ tôm sú nhiều là Mỹ và Nhật Bản giảm mạnh; đồng thời một số diện tích nuôi tôm sú đã chuyển đổi sang nuôi tôm thẻ chân trắng cho năng suất và thu nhập cao hơn. Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng năm nay ước tính đạt 13,5 nghìn ha, tăng 75,5% so với năm 2008; sản lượng đạt 63 nghìn tấn, gấp trên 2 lần cùng kỳ năm trước.

Sản lượng thuỷ sản khai thác năm 2009 ước tính đạt 2277,7 nghìn tấn, tăng 6,6% so với năm trước (tốc độ tăng cao nhất trong 8 năm trở lại đây), trong đó khai thác biển đạt 2086,7 nghìn tấn, tăng 7,2%. Khai thác biển tăng cao là do các loại cá cơm, các trác, cá hố, các nục, cá ngừ xuất hiện trên ngư trường với mật độ cao và thời gian kéo dài. Đồng thời chính sách hỗ trợ ngư dân mua mới, đóng mới tàu có công suất lớn đã tăng năng lực khai thác hải sản xa bờ. Ngoài ra, dịch vụ nghề cá được cải tiến hợp lý và hiệu quả hơn đã tạo điều kiện cho các tàu thuyền tăng thêm số ngày đánh bắt trên biển.

3. Sản xuất công nghiệp

Công nghiệp là ngành bị ảnh hưởng mạnh do thị trường xuất khẩu hàng hoá thu hẹp; nhưng các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế có nhiều cố gắng; Chính phủ và các cấp, các ngành đã đề ra nhiều giải pháp kịp thời, có hiệu quả như hỗ trợ lãi suất vay vốn; mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước thông qua các gói kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng; vận động nhân dân hưởng ứng chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nên kết quả sản xuất, kinh doanh từng bước được khôi phục và tiếp tục tăng trưởng.

Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 1/2009 theo giá so sánh 1994 giảm 0,2% so với cùng kỳ năm 2008; các tháng tiếp theo tuy đạt mức tăng trưởng dương nhưng tốc độ tăng thấp (Bình quân 6 tháng đầu năm chỉ tăng 4,8%). Nhờ tích cực triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn nêu trên nên những tháng cuối năm đã tăng trên dưới 10% (Tháng 8 tăng 9,9%; tháng 9 tăng 12,4%; tháng 10 tăng 9,2%; tháng 11 tăng 10,8% và tháng 12 tăng 13,4%). Tính chung cả năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 696,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6% so với năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 3,7% (Trung ương quản lý tăng 5,5%, địa phương quản lý giảm 2,9%); khu vực ngoài Nhà nước tăng 9,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,1% (dầu mỏ và khí đốt tăng 9,2%, các ngành khác tăng 8%).

Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng đạt tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung cả năm là: Điều hòa nhiệt độ tăng 41,8%; khí hóa lỏng tăng 39,3%; tủ lạnh, tủ đá tăng 29,5%; xà phòng, bột giặt tăng 20,2%; xi măng tăng 19,2%; thép tròn tăng 19,1%; điện sản xuất tăng 11,9%; thuốc lá điếu tăng 10,5%; than sạch tăng 9,9%; dầu thô khai thác tăng 9,8%; nước máy thương phẩm tăng 9,7%; giầy, dép giả gia tăng 9,6%; bia tăng 8,5%.

Một số tỉnh, thành phố có quy mô sản xuất công nghiệp lớn đạt tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung cả nước là: Quảng Ninh tăng 15,8%; Thanh Hóa tăng 13,9%; Đồng Nai tăng 10,6%; Bình Dương tăng 10,3%; Khánh Hòa tăng 10%; Hà Nội tăng 9,4%; Cần Thơ tăng 9,1%; Đà Nẵng tăng 8,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,9%; Hải Phòng tăng 7,7%. Bên cạnh đó, một số tỉnh có tốc độ tăng thấp như: Hải Dương tăng 6,2%; Phú Thọ tăng 5,3%; Vĩnh Phúc tăng 5%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 3,1%.

4. Hoạt động dịch vụ

Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Do sản xuất trong nước phục hồi, giá cả hàng hoá, dịch vụ tương đối ổn định, nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh khai thác thị trường trong nước nên tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả năm ước tính đã đạt 1197,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6%; nếu loại trừ yếu tố giá thì mức tăng đạt 11% so với năm 2008.

Trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2009, khu vực kinh tế cá thể đạt 663,2 nghìn tỷ đồng, tăng 20,3%; kinh tế tư nhân đạt 374,9 nghìn tỷ đồng, tăng 22,9%; kinh tế Nhà nước đạt 116,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 31,3 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5%; kinh tế tập thể đạt 11,8 nghìn tỷ đồng, tăng 18,8%. Xét theo ngành kinh doanh thì kinh doanh thương nghiệp đạt 939,6 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6%; khách sạn, nhà hàng 135 nghìn tỷ đồng, tăng 18,4%; dịch vụ 111,6 nghìn tỷ đồng, tăng 20,3%; du lịch đạt 11,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,9%.

Vận tải hành khách và hàng hoá

Vận tải hành khách năm 2009 ước tính đạt 1989,1 triệu lượt khách, tăng 8,2% và 86,8 tỷ lượt khách.km, tăng 6,2% so với năm 2008. Vận tải hành khách đường bộ ước tính đạt 1798,8 triệu lượt khách, tăng 8,6% và 62,6 tỷ lượt khách.km, tăng 9,3% so với năm trước; đường sông đạt 162,5 triệu lượt khách, tăng 4,5% và 3,3 tỷ lượt khách.km, tăng 4,6%; đường sắt đạt 11 triệu lượt khách, giảm 2,6% và 4,1 tỷ lượt khách.km, giảm 7,9%; đường không đạt 11 triệu lượt khách, tăng 4,2% và 16,5 tỷ lượt khách.km, giảm 1,6%.

Khối lượng hàng hoá vận chuyển năm 2009 ước tính đạt 640,3 triệu tấn, tăng 4,1% và 184,5 tỷ tấn.km, tăng 8,6% so với năm trước, bao gồm: vận tải trong nước đạt 612,8 triệu tấn, tăng 5,6% và 63,9 tỷ tấn.km, tăng 5,3%; vận tải ngoài nước đạt 27,5 triệu tấn, giảm 2,5% và 120,5 tỷ tấn.km, tăng 9,6%. Vận tải hàng hoá đường bộ ước tính đạt 470 triệu tấn, tăng 5,2% và 23,3 tỷ tấn.km, tăng 8,2% so với năm 2008; đường sông đạt 117,1 triệu tấn, tăng 2,3% và 18,7 tỷ tấn.km, tăng 2%; đường biển đạt 45 triệu tấn, giảm 1% và 138,3 tỷ tấn.km, tăng 10%; đường sắt đạt 8,1 triệu tấn, giảm 4,9% và 3,8 tỷ tấn.km, giảm 8,8%.

Bưu chính, viễn thông

Số thuê bao điện thoại phát triển mới năm 2009 ước tính đạt 41,7 triệu thuê bao, tăng 40,8% so với năm 2008, bao gồm 4 triệu thuê bao cố định, tăng 43,1% và 37,7 triệu thuê bao di động, tăng 40,5%. Số thuê bao điện thoại của cả nước tính đến cuối tháng 12/2009 là 123 triệu thuê bao, tăng 51,3% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 18,1 triệu thuê bao cố định, tăng 28,4% và 104,9 triệu thuê bao di động, tăng 56,1%. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông chiếm thị phần lớn nhất (56%) với 68,5 triệu thuê bao, tăng 39,7%, bao gồm 11,6 triệu thuê bao cố định, tăng 10,7% và 56,9 triệu thuê bao di động, tăng 47,6%. Tiếp đến là Tổng công ty Viễn thông quân đội chiếm 31% thị phần với 37 triệu thuê bao.

Số thuê bao Internet có đến cuối tháng 12/2009 đạt 3 triệu thuê bao, tăng 45,5% so với cùng thời điểm năm 2008, trong đó Tập đoàn Bưu chính Viễn thông 2,1 triệu thuê bao, tăng 64,7%. Số người sử dụng Internet tính đến cuối năm 2009 ước tính 22,9 triệu lượt người, tăng 10,3% so với thời điểm cuối năm 2008.

Số thuê bao điện thoại và Internet phát triển mạnh đã góp phần quan trọng đưa tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông năm 2009 ước tính đạt 94,9 nghìn tỷ đồng, tăng 39,7% so với năm 2008, trong đó Tập đoàn Bưu chính Viễn thông đạt 71,2 nghìn tỷ đồng, tăng 45,6%.

Khách quốc tế đến Việt Nam

Do tình hình kinh tế của nhiều nước và vùng lãnh thổ gặp khó khăn nên khách quốc tế nói chung và khách du lịch quốc tế nói riêng đến nước ta cả năm 2009 ước tính chỉ đạt 3,8 triệu lượt người, giảm 10,9% so với năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 2,2 triệu lượt người, giảm 14,8%; đến vì công việc 783,1 nghìn lượt người, giảm 0,2%; thăm thân nhân đạt 517,7 nghìn lượt người, tăng 1,4%; khách đến với mục đích khác đạt 245,1 nghìn lượt người, giảm 8,6%. Một số nước và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta lớn nhưng năm nay vẫn tiếp tục giảm so với năm trước như: Khách đến từ Trung Quốc 527,6 nghìn lượt người, giảm 18%; Hoa Kỳ đạt 403,9 nghìn lượt người, giảm 2,6%; Hàn Quốc 362,1 nghìn lượt người, giảm 19,4%; Nhật Bản 359,2 nghìn lượt người, giảm 8,6%; Đài Loan 271,6 nghìn lượt người, giảm 10,4%; Ôx-trây-li-a 218,5 nghìn lượt người, giảm 6,9%; Pháp 174,5 nghìn lượt người, giảm 4,1%.

II KẾT QUẢ ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, CHỦ ĐỘNG PHÒNG NGỪA LẠM PHÁT CAO TRỞ LẠI

1. Đầu tư phát triển

Với mục tiêu ưu tiên là ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong năm qua Chính phủ đã tập trung thực hiện các gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 245 nghìn tỷ đồng, chiếm 34,8% tổng vốn và tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước 278 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,5% và tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7% và giảm 5,8%.

 

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009

 

Nghìn        tỷ đồng Cơ cấu     (%) So với cùng kỳ năm trước (%)
TỔNG SỐ 704,2 100,0 115,3
Khu vực Nhà nước 245,0 34,8 140,5
Khu vực ngoài Nhà nước 278,0 39,5 113,9
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 181,2 25,7 94,2

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước đạt 153,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư cả nước, bằng 106,8% kế hoạch năm. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do Trung ương quản lý đạt 63,9 nghìn tỷ đồng, bằng 112,8% kế hoạch, trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đạt 3715,9 tỷ đồng, bằng 125,8%; Bộ Giao thông Vận tải đạt 10924,6 tỷ đồng, bằng 113,9%; Bộ Công Thương đạt 252,2 tỷ đồng, bằng 106%; Bộ Y tế đạt 1065,1 tỷ đồng, bằng 105,3%; Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 787,2 tỷ đồng, bằng 102,5%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đạt 541,1 tỷ đồng, bằng 100,5%; riêng Bộ Xây dựng mới đạt 828,5 tỷ đồng, bằng 91,9% kế hoạch năm 2009.

Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước tính thực hiện 89,9 nghìn tỷ đồng, bằng 102,9% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có số vốn thực hiện lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh đạt 14 nghìn tỷ đồng, bằng 101,4% kế hoạch; Hà Nội đạt 10,7 nghìn tỷ đồng, bằng 91,7%; Đà Nẵng đạt 3,8 nghìn tỷ đồng, bằng 113,8%; Bà Rịa-Vũng Tàu đạt 2,5 nghìn tỷ đồng, bằng 96,5%; Bình Dương đạt 2,4 nghìn tỷ đồng, bằng 106,4%; Thừa Thiên – Huế đạt 2,3 nghìn tỷ đồng, bằng 214%; Hà Tĩnh đạt 2,2 nghìn tỷ đồng, bằng 72,2%; Hải Phòng đạt 2 nghìn tỷ đồng bằng 117,8%.

Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2009 đạt thấp do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Tính đến ngày 15/12/2009, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 21,5 tỷ USD, giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm: Vốn đăng ký của 839 dự án được cấp phép mới đạt 16,3 tỷ USD (giảm 46,1% về số dự án và giảm 75,4% về vốn); vốn đăng ký bổ sung của 215 dự án được cấp phép từ các năm trước đạt 5,1 tỷ USD, giảm 1,7%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2009 ước tính đạt 10 tỷ USD, giảm 13% so với năm 2008.

Trong năm 2009, lĩnh vực kinh doanh bất động sản thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 7,4 tỷ USD vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới, chiếm 45,1% tổng vốn đăng ký mới; tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống 5 tỷ USD, chiếm 30,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo với 2,2 tỷ USD, chiếm 13,6%.

Trong năm 2009, có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án được cấp phép mới, trong đó một số nhà đầu tư lớn là: Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký mới là 5,9 tỷ USD chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký mới; Đảo Cay-man 2 tỷ USD, chiếm 12,3%; Sa-moa 1,7 tỷ USD, chiếm 10,4%; Hàn Quốc 1,6 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 9,8%. Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đăng ký tăng thêm năm 2009, Hoa Kỳ dẫn đầu với 3,9 tỷ USD, chiếm 75% tổng vốn đăng ký tăng thêm.

Năm 2009 cả nước có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Quảng Nam có vốn đăng ký dẫn đầu với 4,2 tỷ USD, chiếm 25,4% tổng vốn đăng ký mới; Bà Rịa-Vũng Tàu 2,9 tỷ USD, chiếm 17,5%; Đồng Nai 2,3 tỷ USD, chiếm 14,1%; Bình Dương 2,2 tỷ USD, chiếm 13,2%; Phú Yên 1,7 tỷ USD, chiếm 10,3%.

2. Cân đối thu, chi ngân sách Nhà nước

Mặc dù bị ảnh hưởng trong những tháng đầu năm do thực hiện miễn, giảm, giãn thuế và giá dầu thô trên thế giới giảm, nhưng những tháng cuối năm sản xuất kinh doanh trong nước phát triển nên tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính đạt xấp xỉ dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 102,5%; thu từ dầu thô bằng 86,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu bằng 101,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 106,2%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 88,8%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 95,6%; thuế thu nhập cá nhân bằng 87%; thu phí xăng dầu đạt 157,5%; thu phí, lệ phí bằng 90,8%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính đạt 96,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 95,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 93,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể đạt 99,6%; chi trả nợ và viện trợ đạt 102,7%. Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 ước tính bằng 7% GDP, thực hiện được mức bội chi Quốc hội đề ra, trong đó 81,2% mức bội chi được bù đắp bằng nguồn vay trong nước; 18,8% bù đắp bằng nguồn vay nước ngoài.

3. Cân đối thương mại

Xuất khẩu hàng hoá

Do sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường thế giới thu hẹp, giá cả của nhiều loại hàng hoá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt gần 41,4 tỷ USD, giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Những tháng cuối năm tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 11 đạt gần 4,7 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 12 đạt mức cao nhất trong năm với 5,25 tỷ USD, tăng 12% so với tháng trước và tăng 12,5% so với tháng 12 năm trước, chủ yếu do hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng, trong đó hàng dệt may tăng 90 triệu USD, gạo tăng 80 triệu USD; giày dép tăng 77 triệu USD; cà phê tăng 67 triệu USD; dầu thô tăng 33 triệu USD. Tính chung quý IV năm 2009, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tăng 7,1% so với quý IV năm 2008.

Nhờ xuất khẩu quý IV tăng cao nên kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 ước tính đạt 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008, bao gồm: khu vực kinh tế trong nước đạt 26,7 tỷ USD, giảm 5,1%, đóng góp 23,5% mức giảm chung của xuất khẩu hàng hoá cả năm; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,9 tỷ USD, giảm 13,5%, đóng góp 76,5%. Nếu không kể dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,2% so với năm 2008.

Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2009 ước tính đạt 9 tỷ USD, giảm 1,3% so với năm trước; dầu thô 6,2 tỷ USD (giảm 2,4% về lượng và giảm tới 40% về kim ngạch), chiếm tới 68% mức giảm chung của tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm; thủy sản đạt 4,2 tỷ USD, giảm 6,7%; giày dép đạt 4 tỷ USD, giảm 15,8%; gạo đạt 2,7 tỷ USD (tăng 25,4% về lượng và giảm 8% về kim ngạch); gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,6 tỷ USD, giảm 9,9%; cà phê đạt 1,7 tỷ USD (tăng 10,2% về lượng và giảm 19% về kim ngạch); than đá đạt 1,3 tỷ USD (tăng 29,9% về lượng và giảm 4,5% về kim ngạch).

Thị trường xuất khẩu một số hàng hoá chủ yếu năm 2009 như sau: Hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ đạt 4,9 tỷ USD, giảm 3% so với năm 2008; tiếp theo là EU đạt 1,7 tỷ USD, giảm 3,1%; Nhật Bản 930 triệu USD, tăng 12%. Thị trường chính của dầu thô vẫn là Ôx-trây-li-a với 1,5 tỷ USD, giảm 55%; Xin-ga-po 1 tỷ USD, giảm 37%; Ma-lai-xi-a 780 triệu USD, giảm 8%; Mỹ 430 triêụ USD, giảm 57%; Trung Quốc 420 triệu USD, giảm 30%. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang các đối tác chính trong năm 2009 đều giảm, trong đó EU đạt 1,1 tỷ USD, giảm 5,7 %; Mỹ 710 triệu USD, giảm 3,9%; Nhật Bản 760 triệu USD, giảm 8,4%. Sản phẩm giày, dép xuất khẩu sang EU năm 2009 ước tính đạt 1,9 tỷ USD, giảm 23,2%; Mỹ 1 tỷ USD, giảm 2%; Nhật Bản 120 triệu USD, giảm 10,5%.

Trong năm 2009, 7 thị trường xuất khẩu chính của hàng hoá của nước ta đã chiếm gần 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, gồm: Thị trường Mỹ ước tính đạt 11,2 tỷ USD, giảm 5,5% so với năm 2008; EU 9,3 tỷ USD, giảm 14,4%; ASEAN 8,5 tỷ USD, giảm 16,4%; Nhật Bản 6,2 tỷ USD, giảm 27,7%; Trung Quốc 4,8 tỷ USD, tăng 4,9%; Hàn Quốc 2,5 tỷ USD, tăng 15%; Ôx-trây-li-a 2,2 tỷ USD, giảm 48% (chủ yếu do giá dầu thô giảm). Đáng chú ý là thị trường châu Phi tuy kim ngạch ước tính mới đạt 1,1 tỷ USD nhưng đã phát triển nhanh, gấp 8 lần năm 2008.

Nhập khẩu hàng hoá

Tương tự như xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá 8 tháng đầu năm chỉ đạt gần 41,8 tỷ USD, giảm 29% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, những tháng cuối năm kinh tế thế giới có sự phục hồi nên một số mặt hàng đã tăng giá; mặt khác, kinh tế trong nước đạt tốc độ tăng trưởng khá, nhu cầu hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống cũng tăng lên nên kim ngạch nhập khẩu hàng hoá tháng 9, tháng 10, tháng 11 và tháng 12 liên tục tăng so với cùng kỳ năm trước với tốc độ tăng lần lượt là: 13,9%, 14,5%, 44,5% và 15,7%. Do vậy, tính chung cả năm 2009, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá ước tính đạt 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 43,9 tỷ USD, giảm 16,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,9 tỷ USD, giảm 10,8%.

Hầu hết kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất của năm nay đều giảm so với năm 2008, trong đó xăng dầu đạt 6,2 tỷ USD, giảm 43,8%; sắt thép đạt 5,3 tỷ USD, giảm 22,9%; vải 4,2 tỷ USD, giảm 5,2%; chất dẻo đạt 2,8 tỷ USD, giảm 4,1%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 1,9 tỷ USD, giảm 17,8%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 1,7 tỷ USD, giảm 1,4%. Tuy nhiên, có một số mặt hàng đã đạt kim ngạch nhập khẩu tăng so với năm trước như: Điện tử máy tính và linh kiện 3,9 tỷ USD, tăng 5,9%; ô tô 2,9 tỷ USD, tăng 2,5%, trong đó ô tô nguyên chiếc 1,2 tỷ USD, tăng 12,6% về giá trị và tăng 49,4% về lượng.

Trong các nhóm hàng nhập khẩu năm 2009, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng chiếm tỷ trọng 29,5% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá; nguyên nhiên vật liệu chiếm 61,3%; hàng tiêu dùng chiếm 8,7%; vàng chiếm 0,5%. Về thị trường nhập khẩu hàng hoá, 8 đối tác chủ yếu chiếm hơn 85% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 gồm: Trung Quốc 16,1 tỷ USD, tăng 2,7% so với năm 2008; ASEAN 13,4 tỷ USD, giảm 31,3%; Nhật Bản 7,3 tỷ USD, giảm 11,3%; Hàn Quốc 6,7 tỷ USD, giảm 5,3%; Đài Loan 6,2 tỷ USD, giảm 25,9%; EU 5,5 tỷ USD, tăng 2,2%; Mỹ 2,8 tỷ USD, tăng 9,1%; Ôx-trây-li-a 1 tỷ USD, giảm 24%. Mặc dù kim ngạch nhập khẩu hàng hoá có tốc độ giảm nhanh hơn kim ngạch xuất khẩu nhưng nhập siêu hàng hoá năm 2009 ước tính vẫn ở mức 12,2 tỷ USD, tuy giảm 32,1% so với năm 2008 nhưng đã bằng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả năm 2009.

Xuất nhập khẩu dịch vụ

Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2009 ước tính đạt 5766 triệu USD, giảm 18,1% so với năm 2008, trong đó dịch vụ du lịch đạt 3050 triệu USD, giảm 22,4%; dịch vụ vận tải 2062 triệu USD, giảm 12,5%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2009 ước tính đạt 6837 triệu USD, giảm 14,1% so với năm 2008, trong đó cước phí vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu đạt 3579 triệu USD, giảm 14,7%; dịch vụ du lịch 1100 triệu USD, giảm 15,4%; dịch vụ vận tải 860 triệu USD, giảm 21,8%. Nhập siêu dịch vụ cả năm là 1071 triệu USD, tăng 17% so với năm 2008 và bằng 18,6% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2009.

4. Kết quả phòng ngừa lạm phát cao

Do ngay từ đầu năm Chính phủ và các cấp, các ngành đã triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng ngừa tái lạm phát cao trở lại, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nhất là tập trung phát triển thị trường trong nước; chỉ đạo, điều hành tài chính, tiền tệ linh hoạt nên mức lạm phát năm 2009 không cao.

Giá tiêu dùng năm 2009 tương đối ổn định, ngoài tháng 2 và tháng 12 chỉ số giá tiêu dùng tăng trên 1%, các tháng còn lại giảm hoặc tăng thấp nên chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 năm 2009 so với tháng 12 năm 2008 tăng 6,52%, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu tăng dưới 10% Quốc hội đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2009 tăng 6,88% so với bình quân năm 2008, là mức thấp nhất trong 6 năm trở lại đây (Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2004 tăng 7,71%; năm 2005 tăng 8,29%; năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng 22,97%). Chỉ số giá vàng tháng 12/2009 tăng 10,49% so với tháng trước; tăng 64,32% so với cùng kỳ năm 2008. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2009 tăng 3,19% so với tháng trước; tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2008. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế nước ta vừa đạt mức tăng trưởng tương đối khá, vừa duy trì được mức độ lạm phát không cao, đây là thành công lớn trong chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô.

 

III. KẾT QUẢ ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI, PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HOÁ VÀ CÁC LĨNH VỰC XÃ HỘI KHÁC

1. Dân số, lao động, việc làm

Theo kết quả sơ bộ của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số cả nước tại thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009 là 85,789 triệu người. Tốc độ tăng dân số bình quân thời kỳ 1999-2009 là 1,2%. Trong tổng dân số, dân số thành thị 25,4 triệu người, chiếm 29,6% tổng dân số; dân số nông thôn 60,4 triệu người, chiếm 70,4%; dân số nam 42,5 triệu người, chiếm 49,5% tổng dân số; dân số nữ 43,3 triệu người, chiếm 50,5%. Tỷ lệ giới tính của dân số năm 2009 ở mức 98,1 nam trên 100 nữ.

Cũng theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số trong độ tuổi lao động cả nước là 55 triệu người, trong đó 45,2 triệu người thuộc lực lượng lao động trong độ tuổi, chiếm 82,2% tổng dân số trong độ tuổi lao động. Số lao động trong độ tuổi đang làm việc là 43,9 triệu người, chiếm 51,1% tổng dân số, bao gồm: lao động khu vực thành thị gần 12 triệu người, chiếm 27% tổng lao động trong độ tuổi đang làm việc; lao động khu vực nông thôn 31,9 triệu người, chiếm 73%. Tỷ lệ lao động có trình độ học vấn trung học cơ sở trở lên là 56,7% so với tổng số lao động trong độ tưổi, trong đó tỷ lệ lao động có trình độ trung học phổ thông trở lên là 27,8%. Lực lượng lao động trong độ tuổi có trình độ đại học trở lên chiếm 5,3% tổng lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó thành thị 14,4%; nông thôn 1,8%; nam 5,6%; nữ 5%. Tại thời điểm điều tra, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 2,9% (cao hơn mức 2,38% của năm 2008), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4,64%, xấp xỉ năm 2008; khu vực nông thôn là 2,25%, cao hơn mức 1,53% của năm 2008.

2. Mức sống dân cư

Thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai quyết liệt các chương trình, chính sách xoá đói giảm nghèo như: Chương trình 134; Chương trình 135; Chương trình 30a và nhiều Chương trình quốc gia khác hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các xã đặc biệt khó khăn; đồng thời đẩy mạnh việc cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế, miễn giảm phí khám chữa bệnh, tiến hành nhiều hoạt động khác hỗ trợ các gia đình chính sách và người nghèo.

Trong dịp Tết Kỷ Sửu, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương, các cơ quan, đoàn thể và cá nhân đã hỗ trợ, thăm hỏi và tặng quà cho các hộ nghèo, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương bệnh binh và trẻ em mồ côi với tổng trị giá trên 1,3 nghìn tỷ đồng. Trong năm 2009 đã xây dựng và sửa chữa 37,6 nghìn ngôi nhà cho người nghèo và đối tượng chính sách với tổng trị giá 400 tỷ đồng, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm 50% cả về số lượng nhà và giá trị được hỗ trợ; cấp thẻ bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh miễn phí theo tiêu chuẩn hộ nghèo, hộ chính sách cho 5 triệu lượt người, trong đó nhiều nhất là Trung du và miền núi phía Bắc 2,2 triệu lượt người; đồng bằng sông Hồng 1,2 triệu lượt người. Kết quả thực hiện các chương trình và dự án nêu trên đã góp phần bảo đảm ổn định đời sống dân cư, đặc biệt đối với người nghèo và đồng bào vùng sâu, vùng xa.

Mặc dù trong năm 2009 bão lũ gây hậu quả nghiêm trọng ở Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ, nhưng tình trạng thiếu đói giáp hạt ở khu vực nông thôn vẫn giảm đáng kể. Theo báo cáo của các địa phương, năm 2009 trên địa bàn cả nước có 676,5 nghìn lượt hộ với 2973,3 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 29,4% số lượt hộ và giảm 26,2% số lượt nhân khẩu thiếu đói so với năm trước. Thiếu đói tập trung chủ yếu ở các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Để giúp đỡ đồng bào khắc phục thiếu đói, các cấp, các ngành, các tổ chức cá nhân trong nước và quốc tế đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 43 nghìn tấn lương thực và 65,2 tỷ đồng, riêng tháng 12/2009 hỗ trợ 5,3 nghìn tấn lương thực và 23,9 tỷ đồng.

Đời sống những người làm công ăn lương cũng tiếp tục được cải thiện. Theo Nghị định số 33/2009/NĐ-CP ngày 06/4/2009 của Chính phủ, mức lương tối thiểu đã tăng 20%, từ 540 nghìn đồng/tháng lên 650 nghìn đồng/tháng; trợ cấp hàng tháng của những đối tượng hưởng lương hưu tăng thêm 5%. Ngoài ra, trong 4 tháng đầu năm, cán bộ, công chức, viên chức có hệ số lương dưới 3,0 được phụ thêm 90 nghìn đồng mỗi tháng. Thu nhập bình quân tháng của lao động khu vực Nhà nước năm 2009 bình quân đạt 3084,8 nghìn đồng, tăng 14,2% so với năm 2008, trong đó thu nhập của lao động trung ương đạt 3979,1 nghìn đồng, tăng 16,1%; địa phương đạt 2532,9 nghìn đồng, tăng 13%.

Nhờ các chính sách nêu trên và đặc biệt là sản xuất nông nghiệp năm nay đạt kết quả khá; giá lương thực, thực phẩm tăng có lợi cho nông dân; các doanh nghiệp duy trì và phát triển được sản xuất kinh doanh nên đời sống của nhân dân, đặc biệt là những người thu nhập thấp, người làm công ăn lương cũng đỡ khó khăn hơn. Do vậy, tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2009 ước tính 12,3%, thấp hơn mức 14,8% của năm 2007 và mức 13,4% của năm 2008.

3. Giáo dục và đào tạo

Giáo dục

Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2008-2009 được tổ chức một đợt trên phạm vi cả nước với 1046,1 nghìn thí sinh dự thi, bao gồm 912,8 nghìn thí sinh hệ phổ thông và 133,3 nghìn thí sinh hệ bổ túc với tỷ lệ học sinh tốt nghiệp hệ phổ thông đạt 83,8%; hệ bổ túc đạt 39,9%, thấp hơn nhiều so với kết quả thi của năm học trước (các tỷ lệ tốt nghiệp tương ứng của năm học trước lần lượt là 86,6% và 68,1%).

Theo báo cáo từ các địa phương, tại thời điểm khai giảng năm học 2009-2010, cả nước có 2853,8 nghìn trẻ em học mẫu giáo, tăng 2,9% so với đầu năm học trước; 6907,3 nghìn học sinh tiểu học, tăng 2,6%; 5230,4 nghìn học sinh trung học cơ sở, giảm 4,4% và 2885,6 nghìn học sinh trung học phổ thông, giảm 1,4%. Cũng trong năm học 2009-2010, cả nước có 143,3 nghìn giáo viên mẫu giáo, tăng 3,8% so với năm học trước; 350,4 nghìn giáo viên tiểu học, tăng 0,2%; 316,9 nghìn giáo viên trung học cơ sở, tương đương năm học trước và 143,4 nghìn giáo viên trung học phổ thông, tăng 2,3%.

Cơ sở vật chất của các trường phổ thông được quan tâm đầu tư nhiều hơn nên năm học 2008-2009 cả nước có 444 nghìn phòng học dành cho các cấp học phổ thông, tăng 5,4 nghìn phòng so với năm học trước. Sau một năm triển khai thực hiện Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/2/2008 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án Kiên cố hoá trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012, các địa phương đã xây dựng hoàn thành 9496 phòng học và 16621 phòng học khác đang xây dựng, đạt 88,1% kế hoạch; 4180 nhà công vụ đã xây dựng hoàn thành và 4875 nhà công vụ khác đang xây dựng, đạt 93,1%. Việc đầu tư cho các trường chuyên, trường dân tộc được tăng cường. Đến nay cả nước có 74 trường trung học phổ thông chuyên với tổng số 47 nghìn học sinh; 285 trường phổ thông dân tộc nội trú và 1657 trường phổ thông dân tộc bán trú.

Trong những năm qua, công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở triển khai mạnh mẽ tại nhiều địa phương nên tính đến hết tháng 8/2009, số trường mầm non và phổ thông được công nhận đạt chuẩn quốc gia của cả nước đạt 8672 trường, bao gồm 1644 trường mầm non; 5254 trường tiểu học; 1573 trường trung học cơ sở và 201 trường trung học phổ thông. Tính đến tháng 12/2009, cả nước đã có 48/63 địa phương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và 56/63 địa phương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

Đào tạo

Tính đến hết tháng 8/2009, cả nước có 376 trường đại học, học viện và trường cao đẳng, bao gồm 150 trường đại học, học viện và 226 trường cao đẳng. Cả nước đã có 62/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trường đại học, cao đẳng (Đắk Nông là tỉnh duy nhất chưa xây dựng trường đại học, cao đẳng). Số sinh viên đại học, cao đẳng năm học 2008-2009 là 1,72 triệu sinh viên, tăng 7% so với năm học trước, đạt chỉ tiêu 200 sinh viên/1 vạn dân, sớm hơn kế hoạch đề ra 1 năm; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 625,8 nghìn học sinh, tăng 1,8%. Ước tính

năm học 2009-2010, cả nước có 1,3 triệu sinh viên đại học, tăng 2,2% so với năm học 2008-2009; 530 nghìn sinh viên cao đẳng, tăng 11,1% và 650 nghìn học sinh trung cấp chuyên nghiệp, tăng 3,8%.

Công tác đào tạo nghề được tập trung đầu tư nên năm 2009 các cơ sở dạy nghề đã tuyển được 1645 nghìn lượt người, vượt 0,3% kế hoạch đề ra. Ngày 27/11/2009, Chính phủ đã phê duyệt Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020; theo đó mỗi năm sẽ đào tạo 1 triệu lao động với tổng kinh phí thực hiện Đề án là 25980 tỷ đồng. Giai đoạn I của Đề án thực hiện năm 2009-2010, đào tạo 800 nghìn lao động; đồng thời thí điểm các mô hình đào tạo nghề cho 18 nghìn lao động khác. Mỗi lao động nông thôn trong diện đào tạo được hỗ trợ phí đào tạo nghề ngắn hạn (dưới 3 tháng) với mức tối đa 3 triệu đồng/người/khoá và được hỗ trợ tiền ăn, chi phí đi lại.

4. Y tế và chăm sóc sức khỏe dân cư

Tình hình dịch bệnh năm 2009 diễn biến tương đối phức tạp. Bên cạnh một số dịch bệnh nguy hiểm như sốt xuất huyết, sốt rét, cúm A (H5N1), còn xuất hiện thêm dịch cúm A (H1N1) với mức độ lây lan nhanh chóng trong cộng đồng. Tính từ đầu năm, cả nước đã có 93,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (81 trường hợp tử vong); 48,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét (19 trường hợp tử vong); 7,4 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; gần 900 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (17 trường hợp tử vong); 1,2 nghìn trường hợp mắc bệnh thương hàn và 7 trường hợp tử vong do virút cúm A (H5N1). Tính đến ngày 28/12/2009 cả nước đã có 11,1 nghìn trường hợp nhiễm cúm A (H1N1), trong đó 53 trường hợp tử vong.

Số trường hợp nhiễm HIV/AIDS tại các địa phương vẫn gia tăng. Tính từ ca phát hiện đầu tiên cho đến ngày 21/12/2009, trên địa bàn cả nước đã có 203,6 nghìn trường hợp nhiễm HIV, trong đó 80 nghìn người đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 44,5 nghìn người đã tử vong do AIDS.

Vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất và kinh doanh dịch vụ trong năm 2009 nhìn chung chưa được cải thiện. Tình trạng vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn tiếp tục xảy ra tại nhiều địa phương. Đáng chú ý là hầu hết các lĩnh vực liên quan đến sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm khi kiểm tra đều phát hiện những sai phạm nghiêm trọng. Vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe và tính mạng của người dân. Tính đến 21/12/2009, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 84 vụ ngộ độc thực phẩm với 3,9 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 17 người đã tử vong.

5 Hoạt động văn hóa, thể thao

Năm 2009, ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với các địa phương và một số tổ chức quốc tế tiến hành nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể thao và lễ hội quy mô lớn như: Lễ hội chào đón Xuân Kỷ Sửu; kỷ niệm 79 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh; kỷ niệm 55 chiến thắng Điện Biên Phủ;Triển lãm 40 năm ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Tuần văn hoá Du lịch Quảng Nam hướng đến 1000 năm Thăng Long-Hà Nội;Festival lúa gạo tại Hậu Giang; Festival cồng chiêng quốc tế tại Gia Lai; FestivalNgày Văn hoá, Thể thao,Du lịch Mê Công-Nhật Bản tại Cần Thơ; Tuần Văn hoá Cam-pu-chia tại Việt Nam và nhiều lễ hội khác.

Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hoá tiếp tục được triển khai thường xuyên và tích cực. Năm 2009 các cơ quan chức năng đã tiến hành kiểm tra 7,6 nghìn cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá; phát hiện gần 2 nghìn cơ sở vi phạm, xử phạt hành chính gần 7 tỷ đồng; đình chỉ hoạt động hơn 100 cơ sở; tịch thu hơn 250 nghìn băng đĩa, gần 20 nghìn cuốn sách và nhiều văn hoá phẩm khác có nội dung không phù hợp.

Hoạt động thể dục, thể thao tiếp tục được duy trì, phát triển sâu rộng với nhiều nội dung phong phú, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Trong năm 2009, ngành Thể dục Thể thao đã tổ chức thành công 16 giải thể thao quần chúng cấp quốc gia; phối hợp với các Bộ, Ngành tổ chức 5 giải thể thao quần chúng khác và 1 giải thể thao quốc tế. Tại Para Games 5 tổ chức ở Ma-lai-xi-a, đoàn thể thao người khuyết tật Việt Nam đã thi đấu xuất sắc, giành vị trí thứ 3 toàn đoàn với tổng số 175 huy chương, trong đó có 73 huy chương vàng; 57 huy chương bạc và 45 huy chương đồng.

Trong thể thao thành tích cao, ngoài việc tổ chức 172 giải quốc gia, ngành Thể dục Thể thao đã tổ chức thành công 33 giải quốc tế, trong đó Đại hội thể thao châu Á trong nhà lần thứ 3 (AIG 3) đã thành công tốt đẹp, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn bè quốc tế. Tại Đại hội này, đoàn thể thao Việt Nam đã thi đấu xuất sắc, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đề ra, xếp vị trí thứ 2 toàn đoàn trong tổng số 43 đoàn tham gia, giành được 94 huy chương các loại, gồm 42 huy chương vàng; 30 huy chương bạc; 22 huy chương đồng.

Ngoài ra, trong năm 2009 đoàn thể thao Việt Nam còn tham dự 50 giải quốc tế tổ chức ở nước ngoài và đã đạt được nhiều thành tích quan trọng. Đặc biệt tại Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 25 (SEA Games 25) tổ chức tại Lào, đoàn Việt Nam đứng vị trí thứ 2 trong tổng số 11 đoàn tham gia với 83 huy chương vàng; 75 huy chương bạc và 57 huy chương đồng. Tổng số các huy chương đoàn thể thao Việt Nam giành được trong các giải quốc tế tổ chức ở trong và ngoài nước là 879 huy chương các loại, bao gồm: 341 huy chương vàng; 276 huy chương bạc và 262 huy chương đồng.

6. Tai nạn giao thông

Theo báo cáo của Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia, trong 11 tháng năm 2009, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 11,1 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 10,4 nghìn người và làm bị thương 7 nghìn người. So với 11 tháng năm 2008, số vụ tai nạn giao thông giảm 3,7%; số người chết giảm 0,1%; số người bị thương giảm 5,6%. Bình quân một ngày trong 11 tháng năm 2009, trên địa bàn cả nước xảy ra 33 vụ tai nạn giao thông, làm chết 31 người và làm bị thương 21 người. Số vụ tai nạn giao thông đường bộ bình quân trên 10 nghìn phương tiện cơ giới đường bộ trong 11 tháng của năm 2009 là gần 4 vụ, làm chết 3 người và làm bị thương 2 người.

7. Thiệt hại do thiên tai

Trong năm 2009, nước ta chịu ảnh hưởng của 11 cơn bão và nhiều đợt lũ lụt lớn gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Theo báo cáo của các địa phương, thiên tai đã làm 481 người chết, mất tích và 1305 người bị thương, trong đó Phú Yên, Quảng Nam và Kon Tum là ba tỉnh bị thiệt hại nặng nhất về người (Phú Yên có 81 người chết, mất tích và 85 người bị thương; Quảng Nam 50 người chết, mất tích và 223 người bị thương; Kon Tum 50 người chết, mất tích và 32 người bị thương). Thiên tai đã làm trên 1 nghìn km đường giao thông cơ giới bị phá hủy; gần 100 km đê, kè bị sạt lở; hơn 25 nghìn ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; gần 800 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, ngập nước; 41,8 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm 2009 ước tính gần 23,2 nghìn tỷ đồng, gấp gần 2 lần năm 2008, trong đó Quảng Ngãi thiệt hại nặng nhất với 4,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 21% tổng giá trị thiệt hại của cả nước; Quảng Nam 3,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 16%.

Các cấp, các ngành đã kịp thời triển khai công tác cứu hộ và cứu trợ nhằm nhanh chóng khắc phục hậu quả, sớm ổn định sản xuất và đời sống. Tổng số tiền cứu trợ từ các nguồn cho các địa phương bị thiệt hại là 888,6 tỷ đồng và trên 25 nghìn tấn gạo, trong đó cứu trợ từ quỹ dự phòng ngân sách Trung ương là 750 tỷ đồng và 25 nghìn tấn gạo. Ngoài ra, các địa phương bị thiên tai còn nhận được sự hỗ trợ về lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm cần thiết từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế.

Khái quát lại, năm 2009 nền kinh tế nước ta chịu tác động tiêu cực từ hai phía. Cùng với những khó khăn do kinh tế thế giới suy thoái, thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động thì bão lũ xảy ra liên tiếp, dịch bệnh bùng phát ở nhiều địa phương. Trong bối cảnh đó, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 5,32%, vượt mục tiêu đề ra và là một trong số rất ít nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và trên thế giới. Sản xuất công nghiệp thoát khỏi tình trạng trì trệ những tháng đầu năm và cả năm đã tăng 7,6%. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục được mùa với sản lượng lúa cả năm đạt 38,9 triệu tấn, tăng 165,7 nghìn tấn so với năm 2008. Cân đối kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định. Mặc dù nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài giảm 70%, nhưng đầu tư trong nước đã được khơi thông nên tính chung vốn đầu tư phát triển cả năm đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008. Thu ngân sách đạt dự toán cả năm và bội chi ngân sách bảo đảm được mức Quốc hội đề ra là không vượt quá 7% GDP. Lạm phát được kiềm chế, chỉ số tăng giá tiêu dùng tháng 12 năm 2009 so với tháng 12 năm 2008 tăng 6,52%, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu tăng dưới 10% Quốc hội đề ra; chỉ số tăng giá bình quân năm 2009 là 6,88%, thấp nhất trong 6 năm gần đây. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 13,4% năm 2008 xuống còn 12,3%. Văn hoá, giáo dục, y tế và nhiều lĩnh vực xã hội khác cũng đạt được những thành tích vượt trội.

Những kết quả đạt được của năm 2009 đã khẳng định nền kinh tế nước ta đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Đây là thắng lợi của ý Đảng, lòng dân; thể hiện sức mạnh nội lực Việt Nam. Do vậy, cần tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm thành công để lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 và những năm tiếp theo.

Bên cạnh những kết quả quan trọng nêu trên, tình hình kinh tế-xã hội năm 2009 vẫn còn những hạn chế, bất cập nếu không tích cực tìm các giải pháp khắc phục có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 và các năm tiếp theo. Những hạn chế, yếu kém này bao gồm:

– Thứ nhất, nền kinh tế tuy đã tăng trưởng khá và vượt qua giai đoạn khó khăn, nhưng tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào phát triển theo chiều rộng, tăng khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng vốn đầu tư, chưa thực sự dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả nên chất lượng tăng trưởng chưa cao và chưa thật vững chắc. Tỷ lệ đầu tư so với GDP năm 2008 là 41,3%; năm 2009 là 42,8%, nhưng tốc độ tăng GDP hai năm chỉ đạt 6,18% và 5,32% là chưa tương xứng. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và của nhiều ngành, nhiều sản phẩm còn thấp trong khi nước ta đã hội nhập đầy đủ với thế giới.

– Thứ hai, cơ cấu kinh tế tuy bước đầu đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ và tích cực, nhưng vẫn chưa ra khỏi cơ cấu ngành truyền thống với tỷ trọng tương đối cao của khu vực sản xuất vật chất nói chung và khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản nói riêng. Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Năm 2009, cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế của 3 khu vực: Nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ lần lượt là 20,66%; 40,24%; 39,10%; không khác nhiều so với năm 2008 và những năm gần đây. Cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu sản phẩm còn bất hợp lý, chưa phát huy đầy đủ khả năng thế mạnh của mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước.

– Thứ ba, cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Mức thâm hụt ngân sách tuy đã được khống chế, nhưng đã lên tới 7% GDP; nhập siêu hàng hoá năm 2009 tuy giảm 32,1% so với năm 2008, nhưng vẫn bằng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá; nhập siêu dịch vụ bằng 18,6% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ và tăng 17% so với năm 2008. Lạm phát trong năm được khống chế ở mức hợp lý, nhưng nhìn chung giá cả vẫn tiếp tục tăng và đang tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể gây tái lạm phát cao.

– Thứ tư, một số vấn đề xã hội bức xúc chậm được khắc phục. Đời sống nhân dân, nhất là những người có thu nhập thấp, dân cư vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người và vùng thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai vẫn còn nhiều khó khăn. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn còn cao. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở 01/4/2009, tại thời điểm điều tra, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất nghiệp với tỷ lệ thất nghiệp là 2,9%, cao hơn mức 2,38% của năm 2008. Tỷ lệ hộ nghèo tuy đã giảm nhưng vẫn còn 12,3%. Tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp. Tai nạn giao thông chưa giảm mạnh, thậm chí có nơi, có thời điểm còn tiếp tục gia tăng. Tình trạng vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm xuất hiện trên tất cả các khâu từ sản xuất đến bảo quản, chế biến và lưu thông tiêu thụ.

Để phát huy thắng lợi đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2010, tạo động lực cho giai đoạn phát triển mới, cần tập trung giải quyết tốt một số vấn đề trọng tâm sau đây:

Một là, tiếp tục chủ động ngăn chặn lạm phát cao trở lại vì trong nền kinh tế nước ta đang tiềm ẩn nhiều yếu tố tăng giá. Kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi nên nhu cầu hàng hoá sẽ tăng nhanh; những gói kích thích kinh tế lớn của Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc và nhiều nền kinh tế khác chắc chắn sẽ gây hệ lụy tăng giá một số loại nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc mà nước ta thường phải nhập khẩu với khối lượng lớn. Mặt khác, chính sách tiền tệ nới lỏng và chính sách tài khoá mở rộng mà Chính phủ thực hiện trong năm 2009 và còn đang duy trì cũng sẽ là một trong những nhân tố tác động làm gia tăng tốc độ tăng giá.

Hai là, nắm bắt cơ hội kinh tế thế giới phục hồi để đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh việc giữ vững thị trường truyền thống, cần tìm kiếm mở rộng thị trường mới, đặc biệt là thị trường không đòi hỏi hàng hoá chất lượng quá cao hoặc không có hàng rào kỹ thuật khắt khe đối với hàng hoá Việt Nam.

Ba là, chú trọng xây dựng mạng lưới phân phối và bán lẻ hàng hoá trong nước để khai thác tốt thị trường nội địa với sức mua của gần 86 triệu dân. Đẩy mạnh và thực hiện tốt cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh nghiên cứu thị trường, đón bắt tâm lý, nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của dân cư để đề ra kế hoạch sản xuất kinh doanh các loại hàng hoá có mẫu mã phù hợp, bảo đảm chất lượng và giá cả cạnh tranh. Các cấp, các ngành cần triển khai mạnh mẽ và đồng bộ các giải pháp ngăn chặn hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng lưu thông trên thị trường; tiến hành thường xuyên công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu sản xuất đến khâu lưu thông.

Bốn là, khẩn trương xây dựng và triển khai các chương trình, đề án phát triển nông nghiệp, nông thôn và cải thiện đời sống nông dân theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thực hiện triệt để chủ trương thu mua dự trữ các loại nông sản, đặc biệt là lúa để nông dân yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất; đồng thời đây cũng là biện pháp tạo nguồn hàng chủ động xuất khẩu khi có thị trường thế giới có lợi cho ta và chủ động bình ổn giá trên thị trường trong nước. Triển khai các biện pháp giảm chi phí, giá thành, trọng tâm là thức ăn chăn nuôi và giống cây con. Đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi và công tác dự báo, phòng chống thiên tai.

Năm là, tăng cường công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Tích cực triển khai các Chương trình đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Chủ động hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ. Chú trọng khai thác tài sản trí tuệ của các nước phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ phục vụ nông nghiệp và chế biến các sản phẩm nông nghiệp.

Sáu là, đẩy mạnh công tác quy hoạch kinh tế-xã hội vùng và từng địa phương. Chú trọng xây dựng quy hoạch ngành, quy hoạch vùng sản phẩm, vùng nông nghiệp chất lượng cao mà nước ta có thế mạnh. Tăng cường phối hợp liên kết các địa phương, liên kết vùng nhằm phát huy sức mạnh liên vùng, liên tỉnh; đồng thời khắc phục hạn chế của mỗi địa phương, mỗi vùng, từ đó tạo sức tăng trưởng mạnh, hiệu quả và bền vững.

Chúng ta đang bước vào năm 2010, là năm cuối của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006-2010 và cũng là năm cuối của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001-2010, những thắng lợi tương đối toàn diện của năm 2009 chắc chắn sẽ tạo thêm tiềm lực vật chất, tinh thần và kinh nghiệm để thực hiện thắng lợi mục tiêu và nhiệm vụ Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2010 đã được kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XII thông qua và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015.

TỔNG CỤC THỐNG KÊ


 

 

Biểu số liệu năm 2009