1. Khái niệm, phương pháp tính
Số đơn vị có giao dịch thương mại điện tử là số lượng doanh nghiệp, tổ chức thực hiện mua bán hàng hoá, dịch vụ, xúc tiến thương mại, quảng cáo, khuyến mại và các khâu khác thông qua các trang thông tin điện tử bán hàng (không gồm các đơn vị có trang thông tin điện tử nhưng chỉ dùng để quảng cáo, giới thiệu đơn vị và các đơn vị mua, bán hàng hoá, dịch vụ qua điện thoại, fax). Cụ thể:
– Đối với đơn vị bán hàng phải có hàng hóa, dịch vụ chào bán trên mạng Internet và có ít nhất một giao dịch bán hàng hóa, dịch vụ được thực hiện trên mạng Internet trong kỳ quan sát;
– Đối với đơn vị mua hàng phải đặt mua hàng hóa, dịch vụ trên mạng Internet và có ít nhất một giao dịch mua hàng hóa, dịch vụ được thực hiện trên mạng Internet trong kỳ quan sát.
Giao dịch thương mại điện tử thường được thực hiện thông qua các phương thức: giao dịch B2B là giao dịch thương mại điện tử giữa tổ chức với tổ chức (giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước…); giao dịch B2C là giao dịch thương mại điện tử giữa tổ chức với người tiêu dùng; giao dịch C2C là giao dịch thương mại điện tử giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng.
2. Phân tổ chủ yếu
– Ngành kinh tế;
– Loại hình kinh tế.
3. Kỳ công bố: 2 năm.
4. Nguồn số liệu
– Điều tra thống kê thương mại điện tử;
– Chế độ báo cáo thống kê cấp quốc gia.
5. Cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp: Bộ Công thương.